Phần một : Tác giả

Nguyễn Đình Chiểu ( 1822 -1888 )
Tượng Nguyễn Đình Chiểu ở Trường THPT mang tên ông

 

 

 

 

 

 

Nguyễn Đình Chiểu ( 1822 – 1888 )

Tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, hay gọi Đồ Chiểu ( khi dạy học )

Quê quán : làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định ( nay là quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh )

Cuộc đời

Trước khi Pháp xâm lược

  • Xuất thân trong gia đình nhà Nho. Cha làm quan, mẹ là vợ thứ.
  • Từ nhỏ sống với mẹ, khi đất nước gặp binh biến, cha ông gửi con vào Huế, đến năm 18 tuổi, Nguyễn Đình Chiểu trở lại Gia Định.
  • Năm 1843, ông đỗ Tú tài tại trường thi Gia Định, có nhà kia xin gả con gái cho.
  • Năm 1848, trên đường đi thi, nghe tin mẹ mất, Nguyễn Đình Chiểu bỏ thi về chịu tang mẹ, trên đường vì thương nhớ mẹ nên bạo bệnh mù lòa hai mắt. Ông không thể thi cử, lại bị nhà nọ thất hứa từ hôn, cuộc đời trải qua nhiều sóng gió.
  • Năm 1851 trở về sau, ông làm nghề dạy học và làm thuốc.

 

Sau khi Pháp xâm lược

  • Nguyễn Đình Chiểu tuy mù lòa nhưng vẫn cùng các lãnh tụ tính kế, cùng nhân dân chiến đấu. Ông dùng vần thơ để tố cáo giặc và nung nấu ý chí, tinh thần chiến đấu trong nhân dân.
  • Tức giận trước sự tàn bạo của thực dân, hèn yếu của nhà Nguyễn, thương xót nhân dân, ông viết bài thơ Chạy giặc (năm 1859)
  • Khởi nghĩa ở Cần Giuộc năm 1861 thất bại, nhiều nghĩa sĩ bỏ mình gây nên niềm xúc động lớn. Ông đau đớn viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để truy điệu họ.
  • Từ năm 1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Nam, Nguyễn Đình Chiểu theo phong trào tị địa bất lực về Ba Tri ( Bến Tre ) tiếp tục dạy học, làm thuốc, dùng ngòi bút tố cáo bọn bán nước, cướp nước.
  • Biết Nguyễn Đình Chiểu được lòng dân, nhiều quan lại người Pháp đến tận nhà mong ông liên kết giúp sức. Có người Pháp đòi ông nhượng truyện thơ Lục Vân Tiên, cho ông nhiều tài sản, đất đai. Tất cả đều bị ông khảng khái dứt khoác từ chối.

 

Sự nghiệp thơ văn

Tác phẩm chính

Trước khi thực dân Pháp xâm lược

Tác phẩm tiêu biểu : Dương Từ – Hà Mậu, Truyện Lục Vân Tiên

Các tác phẩm chủ yếu truyền bá đạo lí làm người. Tác giả bày tỏ những quan niệm, tư tưởng sống xuyên suốt :

Biết ơn phụ tử nghĩa quân thần,

Nhờ có trời sinh đức thánh nhân.

( Chạnh tưởng Khổng Tử )

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

( Dương Từ – Hà Mậu )

Sau khi thực dân Pháp xâm lược

Tác phẩm tiêu biểu : Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Từ biệt cố nhân, Ngư Tiều y thuật vấn đáp và nhiều bài thơ điếu khác.

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu nghiêng về yêu nước, tố cáo tội ác của giặc và nung nấu lòng dân, kêu gọi chống Pháp :

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,

Một bàn cờ thế phút sa tay.

( Chạy giặc )

Kẻ ứa gan trung trương mắt ngó,

Người liều dạ sắt múa tay không.

Đến hay trung nghĩa theo tro bụi,

Hoài của giang sơn trút biển Đông.

( Tự thuật I )

Nội dung thơ văn

  • Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa : 

Làm ơn há dễ trông người trả ơn.

… Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

( Trích đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga )

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

  • Lòng yêu nước thương dân :

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;

Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì nghe càng thêm hổ.

( Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc )

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,

Mất ổ bầy chim dáo dác bay.

… Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng

Nỡ để dân đen mắc nạn này ?

( Chạy giặc )

Nghệ thuật thơ văn

  • Văn chương trữ tình đạo đức : nội dung thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều hướng người đọc đến giá trị đạo đức, nhân phẩm cao quý của con người. Những chủ đề ông viết như tình bạn, lòng yêu nước, thương dân hay tả cảnh vẫn chất chứa trong đó sự đề cao nhân cách, nhân văn, nhân đạo của con người
  • Đậm đà sắc thái Nam Bộ : thơ văn Nguyễn Đình Chiểu mang tiếng nói giản dị, sử dụng ngôn từ, cách nói của miền Nam do cuộc sống gắn liền với nơi đây.

 

Phần hai : Tác phẩm

Tìm hiểu chung tác phẩm

Xuất xứ

Năm 1861, cuộc khởi nghĩa nông dân ở Cần Giuộc chống Pháp bùng nổ, gây nên tiếng vang lớn. Nhiều nghĩa sĩ tập kích đồn Pháp và bỏ mình, nhân dân cả nước xúc động khôn nguôi. Nguyễn Đình Chiểu theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định viết Văn tế truy điệu các nghĩa sĩ.

Viết bằng chữ Nôm

Thể loại : văn tế

* Văn tế là loại văn gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương với người đã mất. Văn tế có thể viết theo nhiều thể và nhiều hoàn cảnh khác.

Chủ đề

Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ được dựng lên vô cùng anh dũng. Họ sẵn sàng hi sinh thân mình vì độc lập tổ quốc, vì độc lập dân tộc. Những tấm gương ấy ngời sáng và lưu danh qua ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu.

 

Phân tích tác phẩm

Lung khởi : Khái quát về thời cuộc và ý nghĩa cái chết bất tử của người nghĩa sĩ

  • Cấu trúc thường thấy của mở đầu một bài văn tế, thể hiện nỗi niềm thương xót khôn nguôi, tiếng than da diết bằng câu cảm thán :

Hỡi ôi !

  • Hoàn cảnh đất nước rơi vào cảnh điêu tàn loạn lạc: thực dân Pháp xâm lược. Họ sử dụng súng đạn để tàn phá đất nước, uy hiếp nhân dân ( súng giặc đất rền ). Nhưng trong những chuyển biến ấy, nhân dân không hề run sợ mà nổi lên một ý chí chống giặc mãnh liệt ( lòng dân trời tỏ ) :

Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.

  • Nhân dân Cần Giuộc tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân, tuy người hi sinh, bỏ mình không ít, nhưng tiếng thơm về tinh thần hào hiệp, bất khuất, yêu nước của họ mãi lưu truyền :

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.

 

Phép đối sử dụng rất chỉnh trong từng câu tạo sự đối lập đặc biệt trong đời sống và trong chiến đấu của người dân Cần Giuộc :

  • Súng giặc đất rền – lòng dân trời tỏ 
  • Mười năm công vỡ ruộng – một trận nghĩa đánh Tây
  • Chưa ắt còn danh nổi như phao – tuy là mất tiếng vang như mõ

==> Phần lung khởi giới thiệu ngắn gọn về hoàn cảnh và tinh thần nhân dân lúc bấy giờ. Sự hi sinh đánh Tây của người dân không hề lãng phí, họ đã sống đúng tinh thần trách nhiệm với dân tộc. Dù trong cuộc sống bình thường họ chỉ là người nông dân chân lấm tay bùn, nhưng nơi chiến trận họ là những anh hùng dân tộc.

 

Thích thực : Hình ảnh người nông dân nơi lao động và trên chiến trường

Trong cuộc sống thường ngày
  • Họ là tầng lớp nghèo khó, dưới đáy xã hội. Có những người tha hương tìm nơi khai khẩn, học chỉ mong cuộc sống đơn giản yên bình, đủ ăn đủ mặc :

Nhớ linh xưa :

Cui cút làm ăn ; toan lo nghèo khó.

  • Cuộc đời người nông dân chỉ gắn với ruộng đồng, gia súc. So sánh với một người anh hùng, họ không biết võ, không biết dùng đao, kiếm, chưa từng tính toán mưu lược :

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung ; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm ; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

 

Phép đối một lần nữa làm bật lên hình tượng người anh hùng điển hình và người nông dân trong cuộc sống đời thường :

  • Chưa quen – chỉ biết , đâu tới – ở trong
  • Tay vốn quen làm – mắt chưa từng ngó

Phép liệt kê miêu tả rõ hơn những công việc gắn liền và công việc lạ lẫm với cuộc sống của người nông dân :

  • Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy
  • Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ

=> Người nông dân chân lấm tay bùn, tính tình thật thà, đôn hậu. Họ sống trong làng quê, nghèo khổ, cơ cực, chỉ biết lo cho cuộc sống vất vả. Họ chỉ quen cày cấy, lo từng miếng ăn, chưa hề biết đến chiến trận. Họ không phải là hình tượng người lính, người anh hùng đứng lên chống giặc thường thấy.

 

Khi đất nước bị xâm lược
  • Sự lo lắng, hoang mang trước cảnh nước nhà suy sụp, hoang tàn. Càng lo lắng cho tình cảnh đất nước, họ càng căm ghét bọn giặc Tây. Tinh thần người nông dân nghĩa sĩ ngày một cứng cỏi hơn bao giờ hết :

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa ; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

  • Người nông dân từ sợ sệt chờ đợi, dần mạnh mẽ căm thù thực dân. Sự căm ghét dâng lên tột đỉnh và không có sự trừng phạt nào đủ cho bọn cướp nước :

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan ; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

  • Ý thức về tinh thần trách nhiệm với dân tộc, đứng trước vận mệnh đất nước, họ quyết tâm không để bọn giặc bước lên tấc đất của cha ông :

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu ; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.

 

Sự căm ghét quân giặc thể hiện mãnh liệt qua các biện pháp nghệ thuật :

  • Nói quá : muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ
  • Phép so sánh : trông tin quan như trời hạn trông mưa, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ
  • Tính từ láy, ứng dụng thành ngữ : phập phồng, treo dê bán chó

=> Từ tính tình e dè, chỉ biết lam lũ chịu đựng, người nông dân giờ đây đứng lên làm chủ bản thân. Họ có tinh thần dân tộc, căm ghét giặc thù mãnh liệt và đặc biệt có ý thức trách nhiệm với Tổ quốc.

 

Tinh thần chiến đấu của người nông dân
Tinh thần tự nguyện
  • Tự nguyện, xung phong ra trận chiến đấu chống giặc. Họ không còn là người nông dân dè dặt lo sợ ngày nào mà giờ đây vô cùng dũng cảm, khí phách. Những dòng đầu tiên Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa tinh thần trách nhiệm cao cả hiếm có : nào đợi ai đòi ai bắt

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kinh ; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Tinh thần vượt khó
  • Cuộc sống vốn thô sơ, khốn khó, chỉ quen cày cuốc. Nay vì quốc gia lâm nguy, họ không quan tâm mình là một nông dân nữa, vì mến nghĩa mà làm quân :

Vốn chẳng phải quân cơ vệ, theo dòng ở lính diễn binh ; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

  • Người lính ra trận trải qua nhiều đợt huấn luyện, vừa có võ và có chiến thuật. Ra trận muốn tất chiến tất thắng, phải rèn luyện thể lực và trí lực. Ở đây người nông dân ngày một ngày hai xông vào chiến trận, chưa một lần tập huấn :

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn ; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.

  • Vũ khí thô sơ là đồ dùng hằng ngày nhưng làm nên danh tiếng người nghĩa sĩ Cần Giuộc : manh áo vải, ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phây.
  • Chiến công to lớn mà những quân trang đó mang lại, làm nức tiếng người nông dân anh hùng : đốt nhà dạy đạo kia, chém rớt đầu quan hai họ.
Tinh thần quả cảm
  • Người nghĩa sĩ lao mình không màng sống chết : 

Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không ; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

  • Trận chiến diễn ra vô cùng khốc liệt. Người nghĩa sĩ dùng hết khả năng, bất khuất xông pha, mạnh mẽ kiên cường : 

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh ; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt đồng súng nổ.

 

Nghệ thuật làm bật lên sự anh dũng liều mình, tinh thần chiến đấu của người nông dân nghĩa sĩ :

  • Nhịp điệu nhanh, nhịp nhàng nhưng hùng hồn
  • Giọng điệu cứng cỏi, dứt khoác, ý chí, niềm tin to lớn, mãnh liệt
  • Phép liệt kê : manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay…
  • Phép đối giữa vũ khí hiện đại của giặc và vũ khí thô sơ của ta : tàu sắt, súng, đạn…- dao phay, rơm con cúi…
  • Động từ mạnh xuất hiện liên tiếp làm thế trận ngày một khốc liệt : đốt nhà, chém rớt đầu, đánh hỏa mai, đạp rào lướt, xô cửa xông vào, đâm ngang, chém ngược

=> Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc có một cuộc khởi nghĩa nông dân được mang vào thơ văn hùng hồn, lẫm liệt như vậy. Người nông dân thường thấy, chất phác, lam lũ nay tham gia chiến trận tràn đầy ý chí, quyết tâm, tạo nên một cuộc chiến gây cấn. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ oai hùng chiến đấu, xả thân chống giặc trở thành tượng đài bất tử, lưu danh muôn đời.

 

Ai vãn : Sự thương tiếc và cảm phục người nghĩa sĩ

Sự hi sinh cao cả vì dân tộc luôn được ghi khắc
  • Người nghĩa sĩ già có, trẻ có, người thanh niên khỏe khoắn có, người vợ con yên bề có. Họ cùng tham gia khởi nghĩa, nhưng lúc hi sinh, người phải dở dang cuộc đời, sự nghiệp, người bỏ lại mẹ già, con thơ :

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng ; đâu biết xác phàm vội bỏ.

Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây ; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.

  • Sự hi sinh để lại tiếng khóc đau thương, nơi chiến trận trở thành nơi người nông dân anh hùng ngã xuống. Người mất, không gian cũng bao trùm sự thương cảm :

Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng ; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

  • Đau xót thay ở đây chính bởi vì sự tự nguyện của người nông dân. Họ không bị ràng buộc, lại sẵn sàng hi sinh thân mình vì dân tộc, đất nước, bởi bọn gian ác đê hèn. Một tinh thần cao cả mất đi, để lại sự nuối tiếc, thương đau cho toàn thể nhân dân.
  • Sự hi sinh vì chính nghĩa được đề cao, ghi khắc. Tội ác của giặc cũng từ đó ghi khắc trong lòng mỗi người dân, họ căm hận, ghét cay ghét đắng lũ cướp nước, bán nước :

…mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương ; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiu mưa ngã gió.

  • Sự khác nhau giữa giặc, người chịu khuất phục và dân, người đứng lên chiến đấu : làm giặc thấy lại thêm buồn, nghe càng thêm hổ, làm dân về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây.

 

Các biện pháp nghệ thuật thể hiện tội ác của giặc, con đường chính nghĩa của người nghĩa sĩ 

  • Giọng điệu trầm lắng tiếc thương
  • Nhịp điệu khoan thai
  • Điệp ngữ : Vì ai, Sống làm chi
  • Các phép đối giữa cách sống dơ bẩn của giặc và cách sống chân chính của người nông dân nghĩa sĩ

=> Các nghĩa sĩ bỏ mình hi sinh, khẳng định cho một tinh thần chống giặc, bảo vệ quê hương, đất nước của dân tộc. Điều họ làm chính là sự cao cả, vẻ vang, đúng với đạo lí, mãi luôn được ghi khắc.

 

Niềm đau xót khôn nguôi của người ở lại
  • Tiếng than nức lòng, tiếc thương thay cho người nghĩa sĩ bỏ mạng

Ôi thôi thôi !

Đau đớn bấy ! …não nùng thay !

  • Những người mất đi, người thân đau xót khôn nguôi. Họ dùng tấm thân mình để gìn giữ non sông đất nước, cả dân tộc cùng đưa tiễn vong linh họ :

…Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều ; … Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

 

Nghệ thuật biểu hiện cho sự đau xót khôn cùng 

  • Hàng loạt câu cảm thán
  • Tính từ : đau đớn, leo lét, não nùng, dật dờ

=> Tiếng khóc thương dành cho những người nghĩa sĩ Cần Giuộc mang tầm vóc lịch sử lớn lao. Nỗi đau không chỉ từ gia đình, láng giềng người đã khuất, nỗi đau còn đến từ đại dân tộc, những người yêu nước. Sự tiếc thương ấy mãi theo ta đến mai sau, không bao giờ quên chiến công về tinh thần to lớn, mãnh liệt.

 

Kết : Ca ngợi, lưu danh người nghĩa sĩ

  • Sau trận đánh Tây vang dội, những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc mãi được lưu danh:

Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ.

  • Họ đã trả xong nợ với nước non, hoàn thành trách nhiệm với non sông đất nước, kể cả hi sinh. Tên tuổi của họ được toàn thể nhân dân khắc ghi : danh thơm đồn sáu tỉnh, thờ trong đình miếu, tiếng ngay trải muôn đời.
  • Quan niệm : Thà chết vinh còn hơn sống nhục, những người nghĩa sĩ hiểu rõ và họ nguyện sống vì điều ngay lẽ phải :

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh,…; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm chưa đủ đền công đó.

 

Nghệ thuật của phần kết thể hiện sự trân trọng, lưu danh người nghĩa sĩ :

  • Phép điệp từ : ai, sống, thác, đánh giặc, thờ vua
  • Giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ ca ngợi người nông dân nghĩa sĩ 

=> Những người nghĩa sĩ vì nước quên mình, họ đã tạo nên một chiến công lẫy lừng mà lịch sử vẻ vang ghi nhận. Tuy họ chỉ là những người nông dân, nhưng tinh thần đấu tranh dũng cảm, kiên cường chống giặc vô cùng quý báu để con người đời đời ghi nhớ. Mọi tiếng thơm, mọi công trạng không thể kể hết sự lớn lao của người nghĩa sĩ. Họ trong tâm thức mỗi người sẽ là bất tử.

 

Đánh giá

Nghệ thuật

  • Giọng điệu thay đổi nhịp nhàng, hợp lí, có lúc dứt khoác mạnh mẽ, lúc trầm lắng đau thương.
  • Phép đối lập của thể văn biền ngầu thể hiện sự rõ ràng hình ảnh người nghĩa sĩ trong mọi hoàn cảnh.
  • Từ ngữ giàu hình tượng, việc sử dụng các tính từ, động từ mạnh hỗ trợ tối đa việc thổi hồn vào tác phẩm.
  • Hình ảnh chân thực, sâu sắc, miêu tả rõ nét từ khung cảnh đến nội tâm.
  • Từ ngôn ngữ, giọng điệu, hình ảnh đều mang đậm sắc thái Nam Bộ

Nội dung

  • Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho thời kì lịch sử đau thương của dân tộc.
  • Thể hiện sự tiếc thương chân thành, sâu sắc của tác giả nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung đối với sự ra đi của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
  • Thành công trong việc xây dựng hình tượng người nông dân chân lấm tay bùn trở chuyển biến thành người nghĩa sĩ chống ngoại xâm vang danh lịch sử
  • Chưa bao giờ người nông dân Việt Nam được đưa vào thơ văn giản dị, gần gũi mà cao đẹp, lẫm liệt hơn bao giờ hết. Nguyễn Đình Chiểu viết về nông dân đồng thời viết về những con người mang đức tính quý giá nhất của dân tộc.
Người đóng góp
Comments to: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc