Phần một: Tác giả

Vài nét về tiểu sử và con người

Tiểu sử

Kết quả hình ảnh cho nam cao"

  • Nam Cao (1917-1951), tên khai sinh là Trần Hữu Tri
  • Quê quán: làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam (làng quê ông nhiều lần đi vào tác phẩm với tên Vũ Đại)
  • Xuất thân trong một gia đình nghèo đông con, ông là người duy nhất được học hết bậc thành chung
  • Ông sử dụng nhiều bút danh khi mới vào nghề: Thúy Rư, Nhiêu Kha, Xuân Du và ổn định hẳn với bút danh Nam Cao qua tác phẩm “Đôi lứa xứng đôi”
  • 1943, tham gia Hội văn hóa cứu quốc
  • 1945, tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê
  • 1946, tham gia đoàn quân Nam tiến, ra Việt Bắc làm công tác văn nghệ, báo chí cách mạng
  • 1951, ông hy sinh trên đường đi công tác
  • 1996, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật

→ Nam Cao là một nhà văn có cuộc sống riêng nghèo túng, có vốn sống phong phú, cuộc đời gắn bó với những người cùng khổ, với quê hương, với cách mạng

Con người

Trước Cách mạng tháng Tám
  • Bề ngoài vụng về, ít nói, có vẻ lạnh lùng nhưng đời sống nội tâm phong phú, luôn sôi sục, có khi căng thẳng, mang nặng tư tưởng u uất, bất đắc chí, bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời
  • Ông có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương, gắn bó ân tình sâu nặng với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ
  • Ông là người trung thực, có tinh thần nghiêm khắc đấu tranh để vượt mình, cố khắc phục tâm lí, lối sống tư sản, vươn tới lối sống đẹp
Sau Cách mạng tháng Tám

Gia nhập cách mạng nên ông thoát khỏi tâm trạng u uất, hăng hái công tác cách mạng, sáng tác văn nghệ phục vụ kháng chiến

Sự nghiệp văn học 

Quan điểm nghệ thuật

Nam Cao có ý thức sâu sắc về vai trò, vị trí của văn chương và nhà văn. hiểu rõ mối quan hệ giữa sống và viết. Quan điểm sáng tác của ông thống nhất, tiến bộ, được phát biểu qua hàng loạt tác phẩm (Trăng sáng, Đời thừa, Đôi mắt)

Kết quả hình ảnh cho tác phẩm đời thừa" Kết quả hình ảnh cho tác phẩm đôi mắt"

Trước Cách mạng tháng Tám

Buổi đầu đến với văn học, Nam Cao làm một số bài thơ lãng mạn và viết những truyện tình thơ mộng. Nhưng ông sớm trở về cuộc sống thực với quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” của trào lưu hiện thực phê phán:

  • Về nghề viết văn
    • Viết văn là một hình thái lao động cao quý, đầy trách nhiệm xã hội
    • Viết văn là một công việc nghiêm túc, luôn đòi hỏi sự tìm tòi, sáng tạo cái mới
  • Về tác phẩm văn chương
    • Văn chương không được giả dối, phù phiếm, thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công mà phải phản ánh hiện thực cuộc sống cùng quẫn của nhân dân
    • Văn chương chân chính phải có tính nhân đạo, làm cho con người gần nhau 
  • Với nhà văn
    • Nhà văn phải có lương tâm, nhân cách xứng đáng với nghề nghiệp của mình
    • Nhà văn không nên chạy theo cái đẹp, cái thơ mộng mà quay lưng với hiện thực, viết ra những điều phù phiếm. Nhà văn phải ở trong hiện thực, nhìn thẳng vào sự thật để nói lên những nỗi thống khổ của nhân dân
    • Nhà văn phải có lòng nhân đạo, thương yêu, bênh vực những người cùng khổ
    • Nhà văn không được dối trá, cẩu thả, chạy theo đồng tiền

Sau Cách mạng tháng Tám

Tuy ấp ủ hoài bào sáng tác nhưng Nam Cao đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến với quan niệm “sống đã rồi hãy viết”, “góp sức vào công việc tuy không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn”

Quá trình sáng tác và các đề tài chính

Trước Cách mạng tháng Tám

Gồm 01 tiểu thuyết, 01 truyện vừa và 60 truyện ngắn, vài vở kịch

  • Nam Cao có tác phẩm đăng báo từ năm 1936 nhưng đến năm 1941 mới thất sự nổi tiếng với tác phẩm “Đôi lứa xứng đôi”

Kết quả hình ảnh cho tác phẩm đôi lứa xứng đôi"

  • Ông tập trung vào 2 đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo
Người trí thức nghèo Người nông dân nghèo
  • Miêu tả tình cảnh sống dở, chết dở (sống mòn, chết mòn) của giới trí thức (những nhà văn nghèo, nhà giáo trường tư, học sinh thất nghiệp)
  • Đi sâu vào tấn bi kịch vỡ mộng (có tài, có hoài bão đẹp nhưng vì gánh nặng cơm áo mà không thực hiện được)
  • Lên án xã hội ngột ngạt bóp nghẹt sự sống, ước mơ, kiềm hãm tài năng, tàn phá tâm hồn con người
  • Thể hiện niềm khao khát một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc sống sâu sắc, có ích, xứng đáng là cuộc sống con người
  • Tác phẩm tiêu biểu: Trắng sáng, Đời thừa, Sống mòn…
  • Phản ánh cuộc sống tối tăm, tình cảnh thê thảm của người nông dân (những người thấp cổ bé họng, hạng cùng đinh trong xã hội bị ức hiếp, chà đạp)
  • Đi sâu vào tấn bi kịch bị tha hóa (mất dần bản tính lương thiện)
  • Kết án xã hội tàn bạo đã hủy diệt nhân tính của những người lương thiện
  • Phát hiện và khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện của những người đã bị xã hội vùi dập, cướp mất nhân hình, nhân tính
  • Tác phẩm tiêu biểu: Lão Hạc, Một bữa no, Chí Phèo…

Dù viết về đề tài nào, tác phẩm của Nam Cao cũng khắc họa chân thực bức tranh tăm tối, ngột ngạt của xã hội thực dân phong kiến nước ta trước Cách mạng tháng Tám (giá trị hiện thực), thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới những số phận cùng khổ, bị chà đạp, bày tỏ nỗi trăn trở, đau đớn cho tình trạng con người bị vùi dập những ước mơ, bị xói mòn nhân phẩm (giá trị nhân đạo)

Sau Cách mạng tháng Tám

Ông sáng tác văn nghệ phục vụ kháng chiến chống Pháp, ngoài truyện ngắn “Đôi mắt”  còn có “Nhật kí ở rừng” và tập kí sự “Chuyện biên giới”

Phong cách nghệ thuật

  • Luôn hướng tới thế giới nội tâm của con người, có biệt tài miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật
  • Xây dựng những nhân vật điển hình nổi bật
  • Lối văn chân thực mà có sức khái quát cao (từ những chuyện đời thường nêu lên những vấn đề xã hội, những vấn đề triết lí có ý nghĩa to lớn)
  • Tạo được nhiều đoạn đối thoại, độc thoại chân thực, sinh động
  • Kết cấu sáng táo (đảo lộn thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt vừa nhất quán, chặt chẽ)
  • Giọng điệu biến hóa (ngôn ngữ tác giả – ngôn ngữ nhân vật, kể – tả đan xen)
  • Ngôn ngữ tự nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày
  • Lời văn lạnh lùng dửng dưng, buồn thương chua chát mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương
  • Xây dựng được nhiều chi tiết đặc sắc, giàu ý nghĩa

Phần hai: Tác phẩm

Tìm hiểu chung

Xuất xứ – Hoàn cảnh sáng tác

  • Truyện ngắn “Chí Phèo” nguyên có tên là “Cái lò gạch cũ”
  • Khi in thành sách lần đầu (1941) nhà xuất bản Đời mới đổi tên là “Đôi lứa xứng đôi”
  • Khi in trong tập “Luống cày” (1946), Nam Cao đặt tên lại là “Chí Phèo”
  • “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng

Thể loại

Truyện ngắn tự sự, ngôi kể thứ 3

Tóm tắt

  • Chí là một đứa trẻ bị bỏ rơi tại một lò gạch bỏ không ở làng Vũ Đại, được những người dân trong làng nuôi dưỡng
  • Năm 20 tuổi chí làm canh điền cho lí Kiến. Chí là một người nông dân lương thiện
  • Vì ghen, lí Kiến đẩy Chí vào tù. Khi ra tù, trở về làng, không ai nhận ra Chí Phèo bởi dáng vẻ côn đồ
  • Chí Phèo gây những điều tác oai, tác quái cho dân làng, trở thành con quỷ dữ của Làng Vũ Đại, không ai dám gần
  • Chí Phèo triền miên trong cơn say, không ý thức về mình và những việc mình làm
  • Sự quan tâm chân thành của Thị Nở đã thức tỉnh linh hồn Chí Phèo .Hắn khao khát được làm người lương thiện
  • Nghe lời bà cô, Thị Nở từ chối Chí Phèo. Chí Phèo đau khổ, tuyệt vọng. Hắn uống thật say, vác dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Tại đây Chí Phèo đâm chết Bá Kiến rồi tự sát

Chủ đề

Truyện miêu tả tình cảnh bi thảm cùng bi kịch bị tha hóa của một bộ phận nông dân Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám, thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nam Cao ở thái độ lên án xã hội tàn bạo đã hủy diệt bản tính con người khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân

Tìm hiểu chi tiết

Bối cảnh truyện

Làng Vũ Đại – Bức tranh nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám: Đi vào tác phẩm của Nam Cao, hình ảnh làng Vũ Đại hiện lên thật chân thực, cụ thể:

  • Tầng lớp thống trị phong kiến ra sức bóc lột người nông dân. Trong tác phẩm, một thầy địa lý bảo Làng Vũ Đại có thế “quần ngư tranh thực” (đàn cá tranh mồi). Điều đó cho thấy cuộc sống người nông dân như một miếng mồi ngon, còn tầng lớp thống trị như một đàn cá tranh ăn miếng mồi ngon. Và để có được nhiều lợi cho mình, bọn địa chủ không ngần ngại biến những người nông dân lương thiện thành những kẻ lưu manh (điển hình là nhân vật bá Kiến)
  • Người nông dân phải chịu đựng tình cảnh bị áp bức, bóc lột, cuộc sống cùng quẫn. Một bộ phận nông dân bị đẩy vào bi kịch tha hóa (như Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo)
  • Mâu thuẫn giai cấp diễn ra thật căng thẳng, quyết liệt:
    • Đó là mâu thuẫn trong nội bộ tầng lớp thống trị phong kiến do tranh lợi trong việt đàn áp, bóc lột người nông dân ”ngoài mặt thì tử tế với nhau nhưng thực ra trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ” (như xung đột giữa bá Kiến với cách Tự Đạm, đội Tảo)
    • Và mâu thuẫn gay gắt giữa địa chủ với người nông dân (như mâu thuẫn giữa Bá Kiến với Chí Phèo)

→ Trên cơ sở những chi tiết có thật ở làng Đại Hoàng quê mình, Nam Cao đã khắc họa thành công bức tranh tăm tối, nghèo nàn, ảnh đạm, xơ xát, ngột ngạt của làng Vũ Đại với những số phận cùng quẫn, nhiều mâu thuẫn căng thẳng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho bức tranh nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám

Nhân vật Chí Phèo

Điển hình mới về người nông dân bị tha hóa: Bằng tấm lòng nhân đạo, Nam Cao đã dẫn dắt người đọc vào một cuộc đời đầy những bi kịch của Chí Phèo để thấu hiểu tình cảnh khốn khổ của người nông dân lúc bấy giờ, chia sẻ với tác giả những nỗi trăn trở về những quyền sống chính đáng của con người bị xã hội tước đoạt

Từ lúc ra đời đến năm 20 tuổi
Lúc ra đời
  • Chí Phèo là một đứa bé bị bỏ rơi ở một lò gạch cũ bỏ không tại làng Vũ Đại
  • Đứa bé ấy được anh đi thả uống lươn nhìn thấy khi “trần truồng và xám ngắt trong một chiếc váy đụp”, anh nhặt về giao cho bà góa mù, rồi bà ấy chuyển Chí cho một bác phó cối không con. Khi bác ấy mất, Chí đi ở cho hết nhà này đến nhà nọ

Chí có tuổi thơ bơ vơ, khó nhọc, không được săn sóc, yêu thương

Năm 20 tuổi
  • Chí nghèo, lại không họ hàng thân thích, không anh em, không vây cánh
  • Anh làm canh điền cho lí Kiến
  • Chí là một người nông dân hiền lành
  • Chí có bản tính lương thiện:
    • Anh có ước mơ bình dị về một gia đình hạnh phúc với cuộc sống đạm bạc, dựa vào sức lao động chân chính “hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua thêm dăm ba sào ruộng làm”
    • Anh có ý thức về nhân phẩm, nhận thức được điều tốt xấu theo những chuẩn mực đạo đức. Khi bị bà ba – vợ bé của lí Kiến gọi lên bóp chân, anh biết “Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh”, Chí khinh bỉ bà ba, Chí cảm thấy “nhục hơn là thích”, nên anh “vừa làm vừa run”

Chí là một người hiền lành, lương thiện

Từ khi ra tù

Lí Kiến ghen tuông, đã đẩy Chí vào nhà tù thực dân tàn bạo. Đi tù về, Chí trở thành một con người khác, trượt dài trên những bi kịch 

Bi kịch bị tha hóa

Nam Cao đã miêu tả quá trình lưu manh hóa của Chí Phèo qua sự thay đổi nhân hình và nhân tính

  • Sự thay đổi của nhân hình
    • Từ tù trở về, vẻ hiền lành của anh canh điền năm xưa không còn nữa, thay vào đó là dáng vẻ của một gã côn đồ lưu manh “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!”, “Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
    • Gương mặt hắn không còn là gương mặt người mà như mặt của một con vật lạ “cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio, nó vằn dọc vằn ngang không thứ tự biết bao nhiêu là sẹo”

Kết quả hình ảnh cho lò gạch cũ chí phèo

  • Sự thay đổi của nhân tính
    • Về làng hôm trước thì hôm sau, hắn đã có hành động côn đồ, lưu manh, hắn uống rượu say khướt, rồi xách vỏ chai đến nhà bá Kiến “gọi tận tên tục” của cụ bá ra mà chửi, “vừa chửi vừa kêu làng”, “vừa kêu vừa lấy mảnh chai cào vào mặt. Máu ra loe loét”
    • Cụ bá thâm độc, dùng sự ngọt ngào đối đãi Chí Phèo, biến Chí Phèo từ chỗ hung hăng trở nên mềm nhũn. Và đẻ có tiền uống rượu, Chí Phèo trở thành tay sai, công cụ đắc lực trong tay Bá Kiến
    • Hắn mất đi bản tính lương thiện, hắn gây ra biết bao đau khổ, tang thương cho người dân làng Vũ Đại (cướp giật, rạch mặt ăn vạ, dọa nạt…) “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”
    • Hắn mất ý thức
      • Hắn không nhận ra sự sai trái trong hành động của mình, hắn thấy oai khi dám đương đầu với cha con Bá Kiến, hắn còn tự hào cho rằng “anh hùng làng này có thằng nào bằng ta” khi đòi nợ được đội Tảo
      • Hắn triền miên trong những cơn say vô tận “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận”
      • Hắn không nhớ được tuổi tác của mình “hắn đã trở thành người không tuổi… đối với hắn không còn ngày tháng nữa”
      • Thậm chí hắn còn không nhận thức được sự tồn tại của mình “chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ rằng có hắn ở đời”

→ Hắn đã trở thành con quỷ dữ của Làng Vũ Đại, bị cả làng xa lánh

⇒ Nhà tù thực dân đã hủy hoại nhân hình của Chí Phèo, biến anh Chí hiền lành thành tên lưu manh. Chính Bá Kiến là kẻ hủy diệt những phẩm chất tốt đẹp của Chí Phèo, biến người nông dân lương thiện thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch tha hóa của Chí Phèo phản ánh chân thực hiện tượng một bộ phận nông dân bị lưu manh hóa trong xã hội lúc bấy giờ, tố cáo sự tàn bạo của tầng lớp địa chủ phong kiến (giá trị hiện thực, nhân đạo)

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
  • Từ khi đi tù cho đến khi thức tỉnh (gần 20 năm), Chí Phèo dường như sống bên lề của làng Vũ Đại, chỉ biết phá phách làng xóm và tự tàn phá mình, hắn “không có tên trong sổ làng và bị xem là dân lưu tán lâu năm không về làng”
  • Chi tiết mở đầu tác phẩm giúp người đọc hiểu rõ hơn tình cảnh đáng thương của Chí Phèo, Chí Phèo đang trong trạng thái say rượu “vừa đi vừa chửi”, dường như là một thói quen “hễ uống rượu xong là hắn chửi”
    • Tiếng chửi của người ở trạng thái vô thức – say rượu, mới nghe thật bài bản vì hắn chửi từ những cái to tác chung chung “chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại” đến chửi những cái cụ thể “chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”, nhưng suy nghĩ kỹ ta thấy hắn chửi bâng quơ, chửi vu vơ vì không hướng vào chửi một đối tượng cụ thể nào
    • Tiếng chửi của Chí Phèo có nhiều ý nghĩa
      • Tiếng chửi cho thấy trạng thái bực tức, muốn gây sự với mọi người của Chí Phèo
      • Đằng sau tiếng chửi ấy là nhu cầu được giao tiếp, được thừa nhận sự tồn tại của Chí Phèo. Hắn chửi tất cả cũng chỉ mong có ai đó chửi lại để xác nhận sự hiện diện của hắn trong làng
      • Cách chửi cho thấy sự tỉnh táo dù đang say rượu của Chí Phèo, đó là sự tự ý thức về tình cảnh cô độc, khổ sở, tuyệt vọng, bị cả làng Vũ Đại xa lánh, từ chối giao tiếp
      • Các từ ngữ chỉ sắc thái tình cảm tăng cấp “tức mình”, “tức thật”, “tức chết đi được mất”, “mẹ kiếp” cùng hành động chửi tăng cấp “cứ thế mà chửi”, “nghiến răng mà chửi” đứa đẻ ra thân hắn thể hiện tâm trạng uất ức, bị dồn nén của Chí Phèo.
      • Càng đau đớn hơn khi đáp lại tiếng hắn chửi một sự im lặng đến rợn người, cay đắng hơn nữa, đáp lại là tiếng sủa của ba con chó “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”

→ Bi kịch của Chí Phèo là sinh ra làm người nhưng bị cự tuyệt quyền làm người, làng Vũ Đại khi xưa cưu mang hắn nhưng giờ từ chối hắn, không ai thèm chửi hắn, mọi người từ chối giao tiếp với hắn. Hắn bị gạt ra khỏi cộng đồng người, bị xem ngang hàng như những con chó dữ.

Từ khi gặp thị Nở
Mối tình Chí Phèo – thị Nở
  • Chí Phèo gặp thị Nở khi ở bước đường cùng, nhân hình, nhân tính đã bị mất, là con quỹ dữ của làng Vũ Đại
  • Thị Nở là một người đàn bà xấu đến độ “ma chê quỷ hờn”, dở hơi và có “dòng giống mả hủi”, mọi người trong làng đều tránh thị, nên thị ngoài ba mươi mà vẫn ế chồng

→ Giữa Chí Phèo và thị Nở có nhiều điểm giống nhau, nên khi gắn bó với nhau thật xứng đôi

⇒ Xây dựng mối tình Chí Phèo – thị Nở, Nam Cao thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo của mình khi đưa những con người khốn khổ đến gần nhau, san sẻ tình yêu, hạnh phúc, sưởi ấm tâm hồn nhau để từ đó phát hiện ra bản chất lương thiện, khát vọng hạnh phúc ở những người nông dân bị tha hóa

Sự thức tỉnh linh hồn của Chí Phèo
  • Thị Nở làm được một điều kỳ diệu là thức tỉnh linh hồn nơi con quỷ dữ Chí Phèo
  • Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo được Nam Cao miêu tả rất tinh tế bằng khả năng miêu tả tâm lí bậc thầy
    • Đầu tiên, hắn tỉnh rượu sau những cơn say dài, cảm thấy “miệng đắng, tay chân uể oải”
    • Kế đến, Chí Phèo thức tỉnh các giác quan
      • Nhìn thấy không gian mình sống “ở đây người ta gặp chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”
      • Nghe thấy “tiếng chim ríu rít bên ngoài”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, “tiếng cười nói của những người đi chợ”

→ Những âm thanh bình dị của cuộc sống lương thiện

    • Sự thức tỉnh cảm xúc và khả năng phán đoán
      • Cảm nhận được những tín hiệu của cuộc sống, hắn cảm thấy “Chao ôi là buồn”, “nao nao buồn”
      • “Mặt trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ”
      • Hắn càng buồn cho tình cảnh cô độc của mình
      • Hắn cảm thấy “sợ rượu”, đặc biệt là sợ “cô độc”

 

Bát cháo hành của thị Nở: một chi tiết đặc sắc, Nam Cao đã dùng tình người ở thị Nở để thức tỉnh tình người ở Chí Phèo

  • Bát cháo của Thị Nở là bát cháo của tình người, được nấu bằng tình cảm chân thành không tính toán. Thị Nở tự nguyện nấu để săn sóc Chí Phèo khi ốm
  • Bát cháo ấy đã thức tỉnh tính người (thức tỉnh bản chất lương thiện) ở Chí:
    • Nhận bát cháo từ Thị Nở, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì hắn không cần dọa nạt hay giật cướp mà vẫn có người cho không hắn bát cháo
    • Hắn xúc động “mắt hình ươn ướt” vì cảm nhận được tình cảm chân thành từ một người đàn bà dành cho mình, Thị Nở nấu cháo cho hắn ăn mà chẳng yêu cầu hắn phải làm gì
    • Chí Phèo nếm cháo bằng sự xúc động thực sự không thể che giấu “Trời ơi cháu mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng thấy lòng nhẹ nhõm”
    • Chí Phèo trở nên hiền lành “thấy lòng thành trẻ con, muốn làm nũng với Thị như với mẹ”. Tình cảm của Thị Nở đã khơi lại vẻ đẹp hiền lành ở hắn
    • Chí cảm thấy “bâng khuâng, vừa vui vừa buồn, ăn năn hối hận” vì những việc ác mà mình đã làm
    • Nghĩ đến tương lai, Chí Phèo lo vì không đủ mạnh để ác nữa:

→ Tín hiệu cho thấy bản chất lương thiện của Chí đã trở về với Chí

  • Cuối cùng là sự thức tỉnh của khao khát
    • Chí thấy “thèm lương thiện“, cách dùng từ của Nam Cao giúp người đọc cảm nhận được niềm khát khao được làm người lương thiện của Chí Phèo rất mãnh liệt
    • Chí mong muốn được “làm hòa với mọi người”, được nhận trở lại “cái xã hội bằng phẳng thân thiện của những người lương thiện”
    • Chí tràn đầy niềm tin tưởng và con đường hoàn lương của mình “Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”, “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”, đưa hắn trở về cuộc sống lương thiện 
    • Chí khát khao hạnh phúc, Chí bày tỏ niềm khao khát ấy theo cách rất riêng, hắn tình tứ nhìn Thị Nở và ướm hỏi “hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”

⇒ Quá trình thức tỉnh linh hồn của Chí Phèo khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân ngay cả khi họ đã bị xã hội cướp đi bộ mặt người và linh hồn người (giá trị nhân đạo)

Khi bị thị Nở từ chối

Chí Phèo rơi vào bi kịch bị tước đoạt quyền sống lương thiện 

  • Con đường trở lại cuộc sống lương thiện của Chí mới mở ra đột ngột bị đóng lại rất lạnh lùng bởi sự ngăn cản của bà cô thị Nở:
    • Sau năm ngày sống với Chí Phèo, đến ngày thứ sau thị chợt phải hỏi ý kiến của bà cô
    • Suy nghĩ của bà cô về Chí Phèo “là một thằng không cha không mẹ”, “chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”, tượng trưng cho định kiến khắt khe của xã hội, không mở đường cho Chí Phèo làm lại cuộc đời
  • Khi bị Thị Nở từ chối, diễn biến tâm trạng của Chí Phèo cũng được Nam Cao miêu tả sâu sắc:
    • Lúc đầu chưa hiểu nên hắn ngạc nhiên, thích chí “lắc lư cái đầu cười” trước cử chỉ giận dữ của Thị Nở
    • Hiểu ra, hắn “ngẩn người”, “cứ ngồi ngẩn mặt, không nói gì”
    • Thị Nở quay đi, Chí Phèo sửng sốt gọi lại, cố đuổi theo níu lại nhưng bị thị Nở đẩy “lăn khoèo xuống sân”. Chí cố bám víu, cố giữ nhịp cầu đưa mình về xã hội của những người lương thiện nhưng bị thị Nở từ chối quyết liệt
    • Hắn buồn, lại uống rượu nhưng “càng uống lại càng tỉnh ra”, càng tỉnh thì càng buồn “tỉnh ra, chao ôi buồn”. Hắn không nghe hơi rượu mà cứ “thoang thoảng hơi cháo hành”

→ Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao cứ nhắc đến hơi cháu hành ở đoạn này. Hơi cháo hành chính là hương vị của tình người, trước đó đã thức tỉnh, dìu hồn Chí về với hạnh phúc, với sự lương thiện. Giờ đây tình yêu cùng bao nhiêu mơ ước, hi vọng vỡ tan mà hơi cháo hành chứ thoang thoảng khiến nỗi đau càng khoét sâu hơn. Đó không phải là nỗi đau thất tình mà là nỗi đau của người bị tước đoạt quyền làm người lương thiện

    •  Chí Phèo uất hận, tuyệt vọng “ôm mặt khóc rưng rức”, uống đến say mèm
    • Hắn vác dao đến nhà Bà Kiến đòi lương thiện, Chí đối mặt với bá Kiến ở trạng thái tỉnh táo nhất, ý thức về thân phận mình và nhận rõ kẻ thù
    • Câu nói của Chí Phèo “Tao muốn làm người lương thiện” và hàng loạt câu hỏi “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách.. biết không! Chỉ còn một cách là…cái này! Biết không!” thể hiện tâm trạng cực kì phẩn uất và bế tác của Chí Phèo, quá khứ tội lỗi của hắn cũng như những mảnh chai trên mặt kia, không thể xóa được
  • Hành động Chí Phèo đâm chết Bá Kiến là hành động tất yếu, trả thù kẻ để anh vào tù, làm cho đời anh khốn khổ, đó cũng là hành động phản kháng của người nông dân để giải quyết mâu thuẫn với tầng lớp thống trị
  • Cái chết của Bá Kiến cũng là một kết thúc tất yếu theo quy luật “ác giả ác báo”
  • Hành động Chí Phèo tự sát khẳng định mạnh mẽ khát khao sống lương thiện của người nông dân, buộc phải lựa chọn cái chết để giữ lại bản chất lương thiện vừa được đánh thức
  • Cái chết của Chí Phèo cho thấy bi kịch bị tước đoạt quyền sống lương thiện của người nông dân, tố cáo sự tàn bạo của xã hội đương thời khẳng định sự vùng lên của người nông dân cùng đường rất quyết liệt

 

Hình ảnh cái lò gạch cũ: được nhắc đến hai lần trong tác phẩm. Lần thứ nhất là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi, lần thứ hai gắn với cái nhìn của Thị Nở, sau khi Chí Phèo chết, thị nhìn xuống bụng mình, rồi nhìn ra cái lò gạch bỏ không, nơi một Chí Phèo khác ra đời. Hình ảnh ấy gợi ra cái vòng luẩn quẩn của những nạn nhân xã hội lại tiếp tục từ lớp này đến lớp khác, tạo nên một hiện tượng đau xót: hiện tượng Chí Phèo. Từ đó Nam Cao đặt ra một vấn đề có ý nghĩa xã hội và giá trị nhân đạo sâu sắc, đó là phải cứu lấy nhân cách con người, hãy để cho họ được sống như con người, có những quyền lợi chính đáng của một con người

 

Chí Phèo là một điển hình mới về người nông dân cùng khổ chưa gặp cách mạng chưa tìm thấy lối thoát nên bị dồn vào con đường lưu manh. Ba bi kịch trong cuộc đời Chí (bị tha hóa, bị tước đoạt quyền làm người, quyền sống lương thiện) tạo ra giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cho tác phẩm

 

Nhân vật bá Kiến

Điển hình cho bọn hào cường, địa chủ phong kiến tàn bạo, độc ác

Bá Kiến là một lão cường hào cáo già
  • Bản chất giang hùng của bà Kiến được Nam Cao tập trung khắc họa sinh động bằng nhiều chi tiết ấn tượng:
    • Cụ có giọng quát “rất sang”, bao giờ cũng quát để thử dây thần kinh của con người
    • Cụ có lối nói “ngọt nhạt”, có “cái cười Tào Tháo”
    • Cụ có những phương châm, chính sách cùng nhiều thủ đoạn thâm độc trong việc đàn áp, thống trị người nông dân được đúc kết từ mấy đời làm “nghề lí tổng”: “mềm nắn rắn buông”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “bám thằng có tóc ai bám hàng đầu trọc”, “một người khôn ngoan thì chỉ bóp đến nửa chừng – hãy ngấm ngầm đấy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”, thu dụng “những thằng đầu bò” để trị “những thằng đầu bò”, dùng những thằng “không sợ chết không sợ đi tù” để được việc mình…
  • Bản chất cáo già ấy thể hiện rõ nhất trong các đối xử với Chí Phèo, “một kẻ cố cùng liều thân”:
    • Thấy Chí Phèo hung hăng, cụ “xử nhân” mời Chí Phèo vào nhà, đối đãi tử tế, dùng vài câu ngọt và một đồng bạc để biến Chí Phèo từ chỗ “liều chết với bố con lão” trở thành “chỗ đầy tớ chân tay”
    • Biết Chí Phèo cần tiền uống rượu, cụ khích Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đưa hai kẻ đối nghịch với lão vào cảnh thanh toán nhau để lão hưởng lợi
Bá Kiến còn là một lão già háo sắc, hay ghen tuông
  • Cụ có tất cả bốn người vợ
  • Vì ghen mà sẵn sàng đẩy người nông dân lương thiện vào tù
  • Vì ghen nên cụ không nhận ra sự khác biệt trong thái độ và lời nói của Chí Phèo khi Chí Phèo đến đòi làm người lương thiện

 

→ Bá Kiến là một điển hình mới về tầng lớp thống trị phong kiến, ở bản chất thâm độc, tàn bạo, đẩy người nông dân vào con đường lưu manh

Nghệ thuật

  • Ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, giản dị, khẩu ngữ được vận dụng tài tình
  • Giọng điệu biến hóa, lối kể đa thanh, hiện đại (tính phức điệu)
  • Kết cấu linh hoạt, sáng tạo, tự nhiên, hấp dẫn
  • Lời văn tả khách quan nhưng ẩn chứa thái độ của tác giả: thương xót, đồng cảm với người nông dân lên án tầng lớp địa chủ tàn bạo
  • Phân tích tâm lí nhân vật tinh tế sâu sắc
  • Khắc họa những nhân vật rất sinh động, cá tính độc đáo có sức khái quát cao (nhân vật điển hình)

 

Tổng kết

  • “Chí Phèo” là một truyện ngắn đặc sắc về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám
  • Truyện có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ
    • Giá trị hiện thực
      • Phản ánh tình cảnh bi thảm của người nông dân bị bóc lột, bị đẩy vào con đường lưu manh, bị tước đoạt những quyền cơ bản nhất không được sống như một con người
      • Khắc họa chân dung tàn bạo độc ác của tầng lớp địa chủ phong kiến
    • Giá trị nhân đạo
      • Tác giả thương xót, đồng cảm, bênh vực người nông dân
      • Tác giả trân trọng những ước mơ bình dị của họ
      • Tác giả phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa
      • Tác giả lên án sự tàn bạo độc ác của tầng lớp thống trị đã hủy diệt như hình và nhân tính của người nông dân
  • Truyện thể hiện sự am hiểu sâu sắc về nông thôn Việt Nam và phong cách viết truyện ngắn của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám

 

 

 

 

Người đóng góp
Comments to: Chí Phèo