GIỚI THIỆU :

  Tác giả :

  – Sinh 1943  tại tỉnh Thừa Thiên – Huế, trong một gia đình trí thức cách mạng.

  – Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ.

  – Từng giữ chức Tổng thư ký Hội Nhà văn VN, Bộ trưởng VH-TT; Trưởng ban Tư tưởng- Văn hoá TW.

  – Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng ,thể hiện ý thức của tuổi trẻ về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu và nhận thức sâu sắc về đất nước, về nhân dân qua những trải nghiệm của mình

  – Tác phẩm tiêu biểu: Tập thơ “Đất ngoại ô” (1972), Trường ca “Mặt đường khát vọng” (1974).

  Tác phẩm :

  – Xuất xứ: Đoạn “Đất nước” được trích trong Trường ca “Mặt đường khát vọng” là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ VN hiện đại.

  – Hoàn cảnh sáng tác: Trường ca này đucợ tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974,viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống Đề quốc Mỹ xâm lược

  – Nội dung: Đoạn trích thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa, từ đó, nhấn mạnh tư tưởng “Đất nước của nhân dân” và thể hiện lòng yêu quý, tự hào về một Đất Nước giàu đẹp, anh hùng , kêu gọi ý thức trách nhiệm của mọi người đối với Đất Nước

 – Nghệ thuật:

    + Hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình sâu lắng, thiết tha mang màu sắc sử thi. 

    + Kết hợp trữ tình và chính luận : Những cảm nhận về Đất Nước được thể hiện dưới hình thức lời trò chuyện tâm tình nhưng có hệ thống lập luận rõ ràng, chặt chẽ, giàu chất trí tuệ.

    + Các chất liệu của văn học dân gian được sử dụng nhuần nhuỵ, sáng tạo (truyền thuyết, cổ tích, ca do, thành ngữ…)

PHÂN TÍCH :

  PHẦN 1: 42 câu

   Chín câu đầu: Cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về sự hình thành và phát triển của Đất Nước:

        “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

      …Đất Nước có từ ngày đó…”

  * Mở đầu đoạn thơ, tác giả khẳng định Đất Nước có cội nguồn từ rất lâu đời : 

         “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”

    →  Câu thơ mở đầu thật giản dị như một câu nói bình thường, thể hiện một niềm tự hào và biết ơn sâu sắc những người đã tạo dựng nên Đất Nước.

  – Câu thơ thứ hai nhấn mạnh sự hình thành lâu đời, bền vững của Đất Nước:  

         “Có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”

    → Đất nước bắt nguồn từ những gì gần gũi, thân thuộc nhất và cũng bình dị nhất trong đời sống vật chất, tâm hồn của con người, trong mỗi gia đình chúng ta.

  – Những từ ngữ “ đã có…có trong những cái ngày xửa ngày xưa” tạo ý nhấn mạnh.

  – Cụm từ “ngày xưa mẹ thường hay kể”  gợi nhớ đến những câu chuyện mẹ thường hay kể cho chúng ta nghe từ thuở ấu thơ như “Tấm Cám”, “Sọ Dừa”, “Cây tre trăm đốt”… dạy ta biết “ở hiền gặp lành”, biết thiện thắng ác, đồng thời khơi dậy tình cảm thuỷ chung.

⇒ Qua cách nói của Nguyễn Khoa Điềm, ta hình dung Đất nước mang vẻ đẹp của chiều sâu văn hóa, gắn với những huyền thoại chứa đựng những đạo lý tốt đẹp của dân tộc.

  * Theo Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước gắn với phong tục tập quán ngàn đời của dân tộc, hình thành nền bản sắc văn hóa riêng:

         “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

          Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

          Tóc mẹ thì búi sau đầu.”

  – Hình ảnh  “Miếng trầu bà ăn” vô cùng bình dị gợi nhắc đến phong tục ăn trầu có từ xa xưa của dân tộc và nét văn hóa riêng của người Việt. Trầu cau luôn có mặt trong những lễ hội trang trọng, đặc biệt là lễ cưới. Hình ảnh trầu cau tượng trưng cho lòng chung thủy gắn với “Sự tích trầu cau”. Trong văn hóa giao tiếp, trầu cau là  vật để bày tỏ tình cảm: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.

  – Hình ảnh “tóc mẹ bới sau đầu”, tạo nên vẻ duyên dáng rất riêng của người phụ nữ Việt Nam,vẻ đẹp đơn sơ nhưng vẫn tạo ấn tượng với mọi người. Có văn hóa tức là có Đất Nước. Năm thế kỷ trước Nguyễn Trãi cũng từng khẳng định :  

         “Như nước Đại Việt ta từ trước,

          Vốn xưng nền văn hóa đã lâu,

          Núi sông bờ cõi đã chia

          Phong tục Bắc Nam cũng khác.”

(Cáo Bình Ngô)

  * Đất Nước còn được hình thành từ truyền thống đấu tranh kiên cường, anh dũng của nhân dân:

         “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”

  – “Cây tre” là hình ảnh lâu đời gắn bó với làng quê Việt Nam từ thời Hùng Vương.

    + Trong truyền thuyết Thánh Gióng, chú bé làng Gióng đã từng nhổ những bụi tre quật vào đầu giặc Ân nêu cao truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm “Biết trồng tre đánh giặc”, nhân dân Việt Nam xưa đã trưởng thành trong ý thức về quyền dân tộc.

    → Từ rất xưa hình ảnh “cây tre” đã trở thành biểu tượng cho dân tộc Việt Nam, một dân tộc dù “Bão táp mưa sa, vẫn đứng thẳng hàng”. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao, truyền thuyết dân gian, tạo nên một hình tượng thơ vừa gần gũi vừa mới mẻ.

  – Những vị từ “bắt đầu, lớn lên…” làm cho người đọc cảm nhận một Đất Nước sâu bền gốc rễ. Một Đất Nước của “Những người chưa bao giờ khuất” (Nguyễn Đình Thi)

  * Đất Nước được cảm nhận trong chiều sâu của tình yêu cha mẹ với lối sống nặng tình nặng nghĩa:

         “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

    → Hình ảnh thơ gọi nhớ câu ca dao: “Tay nâng chén muối đĩa gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau. Trải qua nhiều thử thách,  cha mẹ càng gắn bó nghĩa tình với nhau. Tình cảm ấy như “muối mặn gừng cay”, cho dù đắng, gian nan, nhọc nhằn, tình thương ấy cũng không bao giờ phai nhạt. Mẹ cha vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, thắm thiết.

  * ĐN đã hình thành khi dân tộc gọi tên được các sự vật: “Cái kèo, cái cột thành tên”

  – “Cái kèo, cái cột” là những bộ phận quan trọng trong cấu trúc một ngôi nhà truyền thống Việt Nam. Chúng được thành tên khi dân ta biết làm nhà để che mưa nắng, ổn định nơi sinh sống. Đó là cái tên thuần túy Việt Nam, không có trong chữ Hán. Như vậy, ngôn ngữ Việt Nam đã có từ lâu đời.

  * ĐN còn “lớn lên” khi dân tộc trải qua quá trình lao động gian khổ nhọc nhằn để mưu sinh.

         “Hạt gạo một nắng hai sương giần sàng”

  – Thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên tiếp “xay, giã, giần, sàng” gợi lên sự vất vả triền miên của người nông dân trên đồng ruộng. Câu thơ như gói trọn quy trình nhọc nhằn để làm ra hạt gạo.Từ xưa, nhân dân ta đã tự mình tạo ra nguồn sống cho mình, tạo dựng một nền văn minh lúa nước, nền văn minh sông Hồng. 

  * Câu thơ cuối cùng kêt lại như một lời khẳng định:

         “Đất Nước có từ ngày đó…”

  – Có từ “ngày đó”, từ những “ngày xửa ngày xưa”, dù trải qua bao biến động thăng trầm nhưng Đất Nước vẫn tồn tại và phát triển, vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của dân tộc, không có kẻ thù nào có thể tiêu diệt được.

  – Dấu chấm lửng nằm ở cuối đoạn như muốn nhắc ta còn nhiều nữa những vẻ đẹp khác nhau của đất nước. Dù tác giả chưa thể “kể” hết được với chúng ta nhưng cũng đủ tạo nên niềm tự hào về một đất nước đẹp tươi trong quá trình hình thành và phát triển của mình.

  ⇒ ĐÁNH GIÁ CHUNG :

  – Đoạn thơ thể hiện phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm: kết hợp giữa chất trữ tình với chất tự sự, triết lý và chính luận sâu sắc. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, xen thể hiện cảm xúc tự nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo các chất liệu văn học dân gian. Từ “Đất Nước” viết hoa diễn tả tình cảm thương yêu – tôn trọng Đất Nước.

  – Nguyễn Khoa Điềm đã có một cách cảm nhận về cội nguồn Đất Nước hết sức cụ thể mà sâu sắc. Đất Nước vốn có nguồn gốc lịch sử từ rất xa xưa mà gần gũi trong hiện tại vì ĐN được cảm nhận trong mối quan hệ ruột rà thân thuộc (bà, cha mẹ, dân mình…), trong chiều sâu văn hóa (phong tục, tập quán, đạo lý, truyền thống..). Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là sự hóa thân từ những gì bình thường, gần gũi nhất. Nó có trong cổ tích, ca dao, gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên một chân dung trọn vẹn về Đất Nước thân thương mà hào hùng, vất vả mà thủy chung.

    Hai mươi câu tiếp theo: Định nghĩa về Đất Nước là gì?

  * Trên phương diện địa lý, Đất Nước là bờ cõi mênh mông có núi cao, biển rộng bao la

         “Đất là nơi anh đến trường,

          Nước là nơi em tắm

          Đất Nước là nơi ta hò hẹn

       …Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”

  – Tác giả đã tách từ “Đất nước” ra thành hai vế “Đất” và “Nước”, hai yếu tố vật chất đầu tiên để tạo thành một Đất Nước.

    → Nghệ thuật này làm cho hình ảnh Đất Nước trở nên cụ thể, gần gũi hơn. Đất nước là không gian sinh tồn, ngay từ những bước chân thuở ấu thơ cuộc đời ta đã gắn cùng Đất Nước “là nơi anh đến trường”, “ là nơi em tắm”, nơi gắn bó những kỷ niệm sâu sắc về tình yêu tuổi trẻ:

        “Đất Nước là nơi ta hò hẹn,

          Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”

  – Nhà thơ lấy ý thơ từ trong tục ngữ, ca dao:

         “Khăn thương nhớ ai,

          Khăn rơi xuống đất”

  → Một nỗi nhớ trong tình yêu, một chốn để hò hẹn cho những người yêu nhau cũng cần đất “Đất” và “Nước

  * Đất Nước không gian rộng lớn: rừng vàng, biển bạc, núi sông:

         ” Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc,

           Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi.”

  → Đó cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ, nơi dân mình đoàn tụ, sinh cơ lập nghiệp, sinh con đẻ cái:

         “Thời gian đằng đẳng,

          Không gian mênh mông

          Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

          Đất là nơi chim về,

          Nước là nơi rồng ở

          Lạc Long Quân và Âu Cơ

          Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.”

  – Nhà thơ nhắc đến truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ để nhấn mạnh nguồn gốc cao quý của dân tộc Việt Nam: “Con Rồng, cháu Tiên”. Mọi dân tộc trên lãnh thổ này đều là anh em. Từ đó khơi gợi truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”:

         “Những ai đã khuất,

          Những ai bây giờ

          Yêu nhau và sinh con đẻ cái

          Dặn dò con cháu chuyện mai sau

          Hằng năm ăn đâu, làm đâu

          Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

  – Ý thơ gợi nhớ đến câu ca dao:

“Dù ai đi ngược về xuôi,

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”

    13 câu cuối: Ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với Đất Nước

         “Trong anh và em hôm nay

          Làm nên Đất Nước muôn đời.”

  – Đất nước còn được cảm nhận trong sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc, giữa thế hệ này với thế hệ khác nối tiếp nhau.

    → Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. Mỗi con người đều thừa hưởng di sản vật chất, tinh thần của Đất nước nên mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ Đất nước và truyền lại cho thế hệ mai sau

         “Trong anh và em hôm,

          Đều có một phần Đất Nước.                             

          Khi hai đứa cầm tay,

          Đất Nước trong chúng ta hài hòa, nồng thắm.”

  – “Khi hai đứa cầm tay nhau” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đậm về nỗi nhớ:

         “Anh yêu em như yêu đất nước

          Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”

  – Khi vòng tay của mỗi người được nối dài, nối rộng với muôn người, đất nước trở nên hùng mạnh, vững bền, muôn đời :

          “Khi chúng ta cầm tay mọi người

           Đất Nước vẹn tròn, to lớn.”

  – Khi hai đứa “cầm tay mọi người” là thể hiện tình đoàn kết, yêu thương đồng bào, những người có cùng nguồn gốc Con Rồng Cháu Tiên.

  – Các từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn…” là một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và Đất Nước.

  – Bốn câu thơ thơ trên có kết cấu song hành:  “Khi chúng ta…Khi chúng ta…”, “Đất Nước hài hòa, nồng thắm”, “Đất nước vẹn tròn, to lớn” tạo nhạc điệu cho câu thơ, thể hiện rõ ý thơ:

    → Tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương, đất Nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam.

  – Hình ảnh:

          “Mai này con ta lớn lên

           Sẽ mang Đất nước đi xa

           Tới những tháng ngày mơ mộng.”

    → Thể hiện niềm tin vào thế hệ con cháu kế thừa, gánh vác trách nhiệm của thế hệ đi trước làm cho Đất Nước ngày càng phồn vinh, giàu mạnh như mong ước của cha ông , xây dựng một Đất Nước “To đẹp hơn, đàng hoàng hơn” ( Hồ Chí Minh).

  – Hai chữ “Mai này” có giọng điệu “rất Huế”, dễ thương, dịu ngọt. Từ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này

 – Bốn câu thơ cuối là lời kêu gọi tha thiết của nhà thơ:

            “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

             Phải biết gắn bó và san sẻ

             Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

             Làm nên Đất nước muôn đời”

  – “Em ơi em” là một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất nước: “Đất Nước là máu xương của mình”.

    → Đất Nước không phải là cái gì trừu tượng, xa xôi. Đất Nước là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, là mồ hôi xương máu của tổ tiên ngàn đời.

  – Điệp ngữ: “Phải biết” lặp lại hai lần như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ. Với Nguyễn Khoa Điềm thì: “gắn bó, san sẻ, hóa thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức trách nhiệm, là nghĩa vụ cao cả  của mỗi người với Đất Nước. Mọi người phải biết gắn bó, chia sẻ những khó khăn gian khổ, nỗi đau của dân tộc và sẵn sàng hy sinh vì Đất Nước. Có như thế mới “làm nên Đất Nước muôn đời”. 

⇒ Đánh giá chung:  Đoạn thơ không là lời giáo lý khô khan mà như một lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện hồn thơ giàu chất suy tư lay động trái tim hàng triệu độc giả yêu thơ, yêu nước. Đoạn thơ thể hiện phong cách thơ trữ tình – chính luận của Nguyễn Khoa Điềm.

  PHẦN 2: 47 câu: Khẳng định tư tưởng “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”

    Mười hai câu đầu: Nhân dân là những người xây dựng Đất Nước.

  *Tám câu thơ đầu nói về hình tượng Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc:

        “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

       …Những người dân nào đa góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm “

  – Khắp nơi trên mọi miền Đất nước ta, ở đâu cũng có những  danh lam thắng cảnh: “núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, sông Cửu Long, núi con Cóc, núi con Gà” …Cảnh thiên nhiên kỳ thú đã gắn liền với đời sống dân tộc qua bao đời nay.

  – “Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái” đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng” hoặc “cặp vợ chồng yêu nhau” mà đã “góp cho”, “góp nên”, làm đẹp, tô điểm thêm Đất Nước:

             “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

              Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”

    → Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định…, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ VN: thủy chung son sắt.

  – Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống :

           “Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại.

            Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương.”

    → Cái “gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho Đất Nước bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. Câu thơ gợi nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng ca ngợi lòng yêu nước, anh dũng và khát vọng hòa bình của dân tộc. Chín mươi chín con voi đã quần tụ, chung sức, chung lòng “Dựng đất Tổ Hùng Vương”.

  – Các từ ngữ “Đi qua còn trăm ao đầm để lại”, “góp mình dựng” đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ Quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

  – Đất Nước còn có núi cao, biển rộng, sông dài:  

          “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”

  – Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa , cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa.

– Quảng Nam, Quảng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…có núi Ấn sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút, non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm  không nói về “địa linh nhân kiệt” mà nghĩa đến những người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo của nhân dân ta: 

          “Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.”

  – “Nghèo” mà vẫn “góp cho” Đất Nước những truyền thống tốt đẹp làm rạng danh đất Việt. Nghèo vật chất mà giàu trí tuệ, tài năng.

  – Hạ Long trở thành kỳ quan, thắng cảnh nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do “những người dân nào đã góp tên”, đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, bộ hổ…làm nên?

    → Nhà thơ đã có cách nói bình dị mà thắm thía ca ngợi nhân dân ta, khẳng định nhân dân ta vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã “làm nên Đất Nước muôn đời”:

           “Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

            Những người dân nào đã góp nên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”

⇒ Đánh giá chung : Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng nhân dân.

  *Bốn câu thơ tiếp, tác giả đi đến một khái quát sâu sắc:

          “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi 

          Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.

          Ôi Đất Nước sau bốn nhìn năm đi đâu ta cũng thấy

          Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

    → Giọng thơ vang lên vừa đĩnh đạc, hào hùng vừa thiết tha, lắng đọng, tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm.

  – “Ruộng đồng, gò bãi…” là hình ảnh của quê hương Đất Nước. Những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi…bất cứ nơi đâu trên Đất Nước Việt Nam thân yêu ta cũng bắt gặp “một bóng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” làm nên bản sắc văn hóa dân tộc.

  – “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” là một câu thơ hay và đẹp, ca ngợi những người đã hy sinh cuộc đời mình để làm nên Đất nước.

  – Chữ  một” lặp lại ba lần, chữ “ta” láy lại hai lần cùng với thán từ “Ôi” đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn về cảm xúc.

  Đoạn còn lại: Nhân dân là những người bảo vệ Đất Nước :

  *Trước hết, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định nhân dân là những người bảo vệ Đất Nước:

  – Trong lịch sử văn học, hình ảnh nhân dân lao động – những con người làm nên lịch sử – lại không được đề cao. Đến văn học cách mạng, người dân lao động mới thực sự trở thành người chủ của Đất Nước. Nguyễn Đình Thi đã viết:

         “Ôm Đất Nước những người áo vải.

         Đã đứng lên thành những anh hùng”

  – Khi nghĩ về bốn nghìn năm Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm  không điểm lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị, sinh ra, lớn lên, lao động và đánh giặc từ thế hệ này nối tiếp thế hệ kia:

          “Em ơi em

           Hãy nhìn rất xa

           Vào bốn ngàn năm Đất Nước

           Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

           Cần cù làm lụng

           Khi có giặc người con trai ra trận

           Người con gái về nuôi cái cùng con

           Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”

  – Những con người vô danh bình dị ấy bình thường họ là những người cần cù lao động, chịu thương chịu khó để tạo ra những giá trị vật chất nuôi sống cộng đồng. Khi đất nước có chiến tranh, mỗi người dân là một chiến sĩ, cuốc cày là vũ khí, ruộng đồng là chiến trường. Biết bao thanh niên lên đường cứu nước, người phụ nữ ở lại hậu phương chăm lo gia đình. Nhưng khi cuộc chiến ngày càng khốc liệt người phụ nữ Việt Nam cũng phát huy truyền thống anh hùng từ thời Bà triệu, Bà Trưng đứng lên chống giặc: “Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.”  Câu thơ lấy ý từ câu thành ngữ quen thuộc trong dân gian.

  – Vì thế, Bác Hồ có tặng cho người phụ nữ Nam bộ thời chống Mỹ tám chữ vàng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.” “Nhiều người đã trở thành anh hùng” lưu danh sử sách ai cũng nhớ như chi Võ Thị Sáu, chị Trần Thị Lý, chị Nguyễn Thị Út tịch…Nhưng có biết bao người anh hùng vô anh đã hy sinh để nhuốm thắm lá cờ Tổ Quốc :                      

           “Nhưng em biết không

           Có biết bao người con gái con trai

           Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

           Họ đã sống và chết

           Giản dị và bình tâm

           Không ai nhớ mặt, đặt tên

           Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

       …Có giặc ngoại xâm thì chống giặc ngoại xâm

          Có nội thù thì vùng lên đánh bại.”

  – Chính vì thế Nguyễn Đình Thi đã khẳng định :

          “Nước chúng ta

           Nước của những người chưa bao giờ khuất.”

(Đất nước)

  – Đoạn thơ nhưng một lời tâm tình tha thiết chân thành của nhà thơ với thế hệ trẻ: “Em ơi em”, “Em biết không”. Chính vì thế nó có sức lay động hàng triệu trái tim Việt Nam yêu nước

  *Mặt khác, nhà thơ còn ca ngợi công lao xây dựng Đất Nước của họ :

         “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

          Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi  26

          Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

          Họ gánh theo tên làng, tên xã trong mỗi chuyến đi dân.

          Họ đắp đập, be bờ để người đời sau trồng cây hái trái”

  – Họ không chỉ dũng cảm ngã xuống để bảo vệ quê hương, đất nước mà còn gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh, vật chất và tinh thần của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã tên làng…trong qua trình mở mang địa bàn sinh sống.

  – Điệp từ “họ” cùng biện pháp liệt kê đã khẳng định công lao to lớn của các thế hệ đi trước, nhằm kêu gọi thế hệ đi sau phải biết ơn bằng cách giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị vật chất, tinh thần đó.

  *Cuối cùng, nhà thơ khẳng định tư tưởng “Đất Nước là của Nhân Dân”:

         “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

          Đất Nước là của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

          Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

          Biết quý công cầm  vàng những ngày lặn lội

          Biết trồng cây đợi ngày thành gậy

          Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

     Đây là tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình . Đoạn thơ khẳng định tư tưởng :“Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân” do nhân dân xây dựng và bảo vệ. Tư tưởng này đã có từ thời Trung Đại. Những nhà tư tưởng lớn, nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc đã từng nói lên những nhận thức về vai trò của nhân dân đối với lịch sử như : Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu….  Đến giai đoạn hiện đại, các nhà thơ  thời chống Mỹ như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Duy, Thanh Thảo… tư tưởng này được nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn bởi nhân dân đã đóng góp to lớn, đã hy sinh anh dũng cho cuộc kháng chiến. Tư tưởng ấy được các nhà thơ thời chống Mỹ, đặc biệt là Nguyễn Khoa Điềm phát biểu một cách thấm thía qua sự trải nghiệm của mình như một thành viên đại gia đình dân tộc, cùng chia sẻ mọi gian lao với nhân dân và được sự đùm bọc của họ.

  – Trong hai câu thơ từ “Đất Nước” được viết hoa một cách trang trọng và lặp lại bốn lần thể hiện niềm yêu quý và tự hào về một đất nước giàu truyền thống văn hóa.

  *Khép lại bài thơ là tiếng hát lạc quan của người lao động thể hiện niềm tự hào dân tộc:

          “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

           Mà khi về đất nước ta thì bắt lên câu hát

           Người đến hát khi kéo đò, chèo thuyền, vượt thác

           Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

TỔNG KẾT:

  – “Đất Nước ”là đoạn trích trữ tình mang  màu sắc sử thi, đưa người đọc vào thế giới bay bổng của VHDG nhưng lại rất mới mẻ và hiện đại. Bằng những hình ảnh gợi cảm, biểu tượng độc đáo có sức gợi liên tưởng nhà thơ đã khơi gợi những truyền thống đẹp đẽ của dân tộc : chịu thương, chịu khó, ân tình, thủy chung, dũng cảm, kiên cường.

Người đóng góp
Comments to: Đoạn trích : ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM