Tìm hiểu chung

Tác giả Trương Hán Siêu

  • Trương Hán Siêu hiện chưa rõ năm sinh, mất năm 1354. Ông là người làng Phúc Am, huyện Yên Ninh (nay thuộc thành phố Ninh Bình).
  • Ông là một người có tính tình cương trực và học vấn uyên thâm nên rất được các vua nhà Trần tin cậy, nhân dân kính trọng.
  • Các tác phẩm của ông còn lại không nhiều, trong đó có bài Phú sông Bạch Đằng.

Tác phẩm

Thể loại

  • Phú sông Bạch Đằng mang những đặc trưng cơ bản của thể phú.
  • Phú là một thể văn vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi, dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời,… Một bài phú thường gồm 4 đoạn: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận và đoạn kết. (theo SGK Ngữ văn 10, tập hai).

Hoàn cảnh sáng tác

  • Bài thơ chưa rõ được viết vào năm nào, có lẽ được viết trong khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên. 
  • Trong một lần dạo chơi trên sông Bạch Đằng, tác giả đã bồi hồi nhớ lại những chuyện xưa, tích cũ về con sông này, về các đời vua nhà Trần. Chính nguồn cảm hứng hào hùng và bi tráng ấy đã khiến cho ông viết nên Phú sông Bạch Đằng.

Bố cục

Phú sông Bạch Đằng cũng có bố cục giống như các bài phú nói chung:

  • Phần 1 (từ đầu đến Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!): Giới thiệu nhân vật khách và cảm xúc của khách khi dạo chơi trên sông Bạch Đằng.
  • Phần 2 (từ Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau đến Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi): Cuộc gặp gỡ giữa khách và các bô lão và những chiến công lịch sử trên sông Bạch Đằng.
  • Phần 3 (từ Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san đến Nhớ người xưa chừ lệ chan): Suy ngẫm và bình luận của các bô lão về những chiến công lịch sử.
  • Phần 4 (còn lại): Lời kết khẳng định vai trò và đức độ của con người.

Đọc – hiểu văn bản

Giới thiệu nhân vật khách và cảm xúc của khách khi dạo chơi trên sông Bạch Đằng

  • Nhân vật khách là sự hóa thân của tác giả, tạo nên lối chủ – khách đối đáp thường có trong thể phú.

Liên hệ mở rộng:

Trong các bài phú cổ, nhân vật khách cũng không quá xa lạ. Ta có thể bắt gặp nhân vật khách trong Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi:

Khách hữu:
Ẩn kỷ cao trai, hạ nhật chính ngọ.
Lâm bích thuỷ chi thanh trì, vịnh phù dung chi Nhạc phủ.

  • Tâm thế dạo chơi, ngắm cảnh đầy ung dung, phóng khoáng của vị khách được thể hiện qua các từ giương buồm, chơi vơi, mải miết.
  • Tác giả cũng giới thiệu các địa danh mà khách đã đi qua:
    • Ở Trung Hoa: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng: Khách là người đi nhiều, biết rộng, mang tráng chí làm bạn với gió trăng, qua nhiều miền sông bể bằng trí tưởng tượng, bằng sự hiểu biết của chính mình.
    • Ở Đại Việt: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng: Đây là những địa danh gắn liền với non sông, đất nước, với lịch sử dân tộc. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tình yêu thiên nhiên, niềm tự hào dân tộc của nhân vật khách.
  • Cảnh sắc thiên nhiên sông Bạch Đằng:

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thước tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu,

    • Sóng kình muôn dặm: không gian bao la với những cơn sóng lớn
    • Đuôi trĩ: Đuôi chim trĩ dài như bánh lái thuyền. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những con thuyền nối đuôi nhau trên sông Bạch Đằng.
    • Ba thu ở đây có ba cách hiểu: là ba mùa thu tượng trưng cho ba năm, là ba tháng của mùa thu, là tháng thứ ba của mùa thu. Trong bài phú này, ta có thể hiểu theo cách thứ ba.

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô

    • Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu, hiu hắt.
    • Núi gò, bờ bãi như gươm giáo, thây giặc chất đống.

Liên hệ mở rộng:

Một thể kỉ sau, Nguyễn Trãi cũng đã viết trong Cửa biển Bạch Đằng:

Ngạc chặt kình băm non lởm chởm

Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng

Tác giả đã khắc họa nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng nhưng vẫn còn lại ở đâu đó sự ảm đạm, hiu hắt.

  • Tâm trạng của nhân vật khách:

Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

    • Là niềm vui thú khi được ngắm nhìn cảnh thiên nhiên, đất trời kì vĩ.
    • Là nỗi buồn tiếc vì cảnh xưa đầy tự hào nay chỉ còn lại sự đìu hiu, hoang quạnh.
    • Là sự tiếc thương, lòng biết ơn sâu sắc cho những người anh hùng đã khuất vì bảo vệ nơi chôn rau cắt rốn, từng tấc đất quê hương. 

Qua đó, ta có thể thấy được tác giả phải là một người có tâm hồn nhạy cảm và giàu cảm xúc. Ẩn sâu trong những câu phú ấy là tình yêu quê hương, đất nước, là niềm tự hào những trang sử vàng của dân tộc, là truyền thống uống nước nhớ nguồn.

Cuộc gặp gỡ giữa khách và các bô lão và những chiến công lịch sử trên sông Bạch Đằng

  • Hình ảnh của các bô lão có thể là những hình ảnh có thật, cũng có thể là sự phân thân của tác giả với nhân vật khách để kể về những chiến công oanh liệt của cha ông ta trên dòng sông Bạch Đằng.
  • Đối với nhân vật khách, các bô lão luôn nhiệt tình, hiếu khách tiếp đón.
  • Nhìn những cơn sóng nhấp nhô, các bô lão và khách như được sống lại những kí ức oanh liệt một thời:

Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô mã,

Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao

Ta và địch, kẻ thắng cuộc và kẻ thua trận được đặt trong thế tương phản, đối lập như tô đậm thêm niềm tự hào sông núi của nhân dân ta.

  • Các chiến tích được các bô lão nhắc đến trong cuộc trò chuyện:
      • Quân ta đã bắt sống Ô Mã Nhi, tướng giặc nguyên, trong trận Bạch Đằng năm 1288.
      • Chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán vào năm 938.
  • Cảnh chiến đấu qua lời kể của các bô lão:

Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới

Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói

Hai câu phú trên đã khắc họa nên hình ảnh một đội quân hùng mạnh cùng khí thế dũng mãnh, quyết liệt đánh tan quân xâm lược.

  • Thái độ kiêu ngạo của quân thù và kết quả của chúng:

Những tưởng gieo roi một lần

Quét sạch Nam bang bốn cõi!

Bồ Kiên nước Tần khi vào đánh nước Tấn có nói: Cứ như số quan của ta thì chỉ ném roi ngựa xuống sông cũng ngăn cản dòng nước lại được. Đó là một sự chủ quan, kiêu ngạo, ỷ thế quân đông tướng mạnh của quân Nguyên.

Thế nhưng: Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối!

Khác nào như khi xưa:

Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Tác giả đã mượn tích xưa để nói lên sự thất bại đầy ê chề, nhục nhã. Đó là cái kết của việc chủ quan, kiêu ngạo.

Suy ngẫm và bình luận của các bô lão về những chiến công lịch sử

Nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của ta và thất bại của  quân địch:

Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an

Tác giả nhấn mạnh yếu tố làm nên chiến thắng của ta chính là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đồng thời cũng nhấn mạnh được vai trò của con người trong công cuộc giữ gìn hòa bình, an ninh dân tộc vững bền. Đồng thời cũng khẳng định được sức mạnh, trí tuệ của con người. Đó chính là nguồn cảm hứng mang giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

Lời kết khẳng định vai trò và đức độ của con người

  • Lời ca của các bô lão:

Sông Đằng một dải dài ghê

Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

    • Bất nghĩa – tiêu vong.
    • Anh hùng – lưu danh.

Đó chính là chân lí vĩnh hằng, bất biến từ bao đời nay: Những điều bất nghĩa sẽ luôn bị tiêu diệt, còn những người anh hùng sẽ luôn được lưu danh cho đến ngàn đời sau.

  • Lời hòa ca của nhân vật khách:

Anh minh hai vị thánh quân

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thăng bình.

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

    • Thánh quân ở đây chính là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông. Đây là hai nhân vật đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần 2 và 3. Nhờ có những vị vua anh minh mà Đại Việt đã giữ được sự thanh bình muôn thuở.
    • Đức cao là lòng yêu nước, thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm họa xâm lăng.

Liên hệ mở rộng: 

Một trong những nét đặc sắc trong thơ văn đời nhà Trần chính là việc nêu cao bài học bảo vệ đất nước:

Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy ngàn thu!

(Trần Quang Khải)                                

Lời hòa ca của nhân vật khách như là một lời khẳng định sâu sắc: Nguyên nhân chiến thắng của quân ta chính là nhờ lẽ sống, đạo đức, lòng tự tôn dân tộc, tình yêu nước cùng với khát vọng hòa bình và đường lối, chiến lược quân sự tài tình của nhà Trần.

Lời ca kết thúc bài phú vừa chứa đựng tình yêu dân tộc, vừa thể hiện được tư tưởng nhân văn cao đẹp của tác phẩm.

Tổng kết

Nghệ thuật

  • Bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt.
  • Hình tượng nghệ thuật sinh động, có giá trị gợi hình và giàu ý nghĩa biểu tượng.

  • Ngôn từ trang trọng, giàu ý nghĩa.

  • Điển cố được sử dụng chọn lọc, giàu sức gợi cảm.

Nội dung

  • Thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc trước những chiến công trên sông Bạch Đằng.
  • Ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc ta.
  • Chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp.
Người đóng góp
Nếu thích bài viết của Trần Nguyễn Nam Phương, hãy theo dõi trên
Comments to: Phú sông Bạch Đằng