Tìm hiểu chung

Tác giả

Cuộc đời

  • Huy Cận (1919 – 2005) tên thật là Cù Huy Cận, sinh tại làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình nho học, học trung học ở Huế và học ở trường Cao đẳng Canh nông tại Hà Nội.
  • Bên cạnh sự nghiệp văn học vẻ vang, Huy Cận còn có cả một sự nghiệp chính trị đồ sộ: từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thứ trưởng Bộ Canh nông,…

Sự nghiệp sáng tác

Chia làm hai giai đoạn:

Trước CMT8 1945
  • Huy Cận là nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới (1932 – 1945).
  • Khi tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” ra đời năm 1940, tên tuổi của ông lập tức được vinh danh, trở thành gương mặt tiêu biểu trong làng Thơ mới.
  • Ông tự nhận rằng “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm”. Huy Cận vào thời điểm này luôn luôn buồn, có xu hướng vui chung niềm vui vũ trụ để nguôi sầu trần gian. Nỗi buồn của ông đến từ sự cảm nhận sâu xa và tinh tế về thân phận lạc loài của “cái tôi” cá nhân – vừa lớn lao vừa nhỏ bé – trước cái mênh mông, vô tận của đất trời, cái vô cùng của thiên nhiên tạo hóa. Đồng thời, nỗi buồn của Huy Cận còn mang cả dấu ấn của một thời đại nô lệ.
  • Các tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng (1940), Kinh cầu tự (1942), Vũ trụ ca (1940 – 1942),…
Sau CMT8 
  • Từ năm 1945 đến năm 1958, Huy Cận ít sáng tác hơn hẳn (Lúc bấy giờ đất nước đã được giải phóng, khắp nơi chìm trong không khí lao động hứng khởi => Huy Cận chưa thể hòa nhập với cuộc sống mới).
  • Sau chuyến đi thực tế năm 1958 ở vùng mỏ Cẩm Phả (Hạ Long), Huy Cận mới tìm thấy sự hòa điệu giữa bản thân với cuộc sống, bắt đầu sáng tác trở lại.
  • Từ năm 1958 trở về sau, phong cách sáng tác của Huy Cận hoàn toàn thay đổi. Ông không còn buồn bã mà trở nên vui tươi, bộc lộ những cảm xúc chân thành, hồ hởi.
  • Các tác phẩm tiêu biểu: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963),….
Phong cách sáng tác

Huy Cận là một trong số ít tác giả định hình được phong cách sáng tác của bản thân: hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại ở cả nội dung (đan xen nỗi sầu vũ trụ của thế nhân từ xưa đến nay với nỗi cô đơn cá nhân) lẫn nghệ thuật (kết hợp hệ thống thi pháp thơ Đường với một số nét nổi bật của thơ Pháp).

Tác phẩm

  • Xuất xứ: In trong tập “Lửa thiêng” (1940).
  • Hoàn cảnh sáng tác: Được viết vào mùa thu 1939, khi tác giả đứng bên bờ sông Hồng ngắm nhìn dòng sông mênh mông nước, nghĩ về kiếp người nổi trôi, nhỏ bé, vô định.
  • Chủ đề: Khắc họa vẻ đẹp sông nước Việt Nam, mượn bức tranh mênh mông sông nước thể hiện nỗi buồn, cô đơn của kiếp người đồng thời bộc lộ tình đời, tình người và tấm lòng yêu nước thầm kín, tha thiết.
  • Bố cục: 4 đoạn
    • Đoạn 1 (khổ thơ 1): cảnh thiên nhiên trên sông và nỗi buồn thân phận.
    • Đoạn 2 (khổ thơ 2): cảnh thiên nhiên trên sông, bến sông và nỗi buồn, cô đơn.
    • Đoạn 3 (khổ thơ 3): cảnh thiên nhiên trên sông, hai bên bờ sông và nỗi buồn, cô đơn.
    • Đoạn 4 (khổ thơ 4): lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.
  • Thể loại: Thơ thất ngôn trường thiên.

Hướng dẫn học bài

Câu 1

Lời đề từ:

  • Là cảm xúc trước cảnh thiên nhiên rộng lớn.
  • Một nỗi buồn phảng phất được gợi lên bởi sự xa cách, chia li giữa sông và trời.

=> Định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thơ.

Câu 2

  • Âm điệu chung của toàn bài thơ là một âm điệu buồn, bâng khuâng, lặng lẽ, man mác.
  • Các câu thơ có nhịp điệu đều đều, không lên xuống hay cao trào, tạo thành nỗi sầu vạn kỉ trải dài suốt bài thơ.

Câu 3

  • Nét cổ điển trong bức tranh thiên nhiên: là những hình ảnh con thuyền, sóng nước, cồn nhỏ, bến thuyền, mây, cánh chim… – những thi liệu quen thuộc đã xuất hiện trong thơ ca trung đại.
  • Bức tranh trở nên gần gũi hơn với những hình ảnh tả thực, bình dị trong cuộc sống hằng ngày: củi, chợ chiều, bèo dạt, bờ xanh – bãi vàng, và đặc biệt là hình ảnh “tràng giang” – con sông vô cùng thân quen trong làng quê Việt Nam.

Câu 4

Bài thơ là sự kết tinh của tình yêu thiên nhiên và tình yêu quê hương thầm kín của tác giả.

  • Huy Cận đã đưa vào bài thơ những hình ảnh làng quê thân thuộc.
  • Thi nhân sử dụng hình ảnh “củi” hay “bèo dạt” ẩn dụ chỉ về những số phận nhỏ bé, nổi trôi vô định trong tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.
  • Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn, cô đơn bộc lộ thông qua hình ảnh “tràng giang”. Nỗi buồn ấy không chỉ đến từ nhận thức thân phận bản thân trước vũ trụ rộng lớn mà còn là nỗi buồn mang dấu ấn của một thời đại nô lệ.

=> Trước tình cảnh nước mất nhà tan, dân ta phải sống cuộc sống của nô lệ ngay trên mảnh đất quê hương, bức tranh “tràng giang” không đơn thuần chỉ là bức tranh miêu tả thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng của tác giả. Phải ở trong thân phận của Huy Cận lúc bấy giờ – chàng thanh niên trẻ tuổi đầy khát vọng nhưng lại bất lực trước thời cuộc – ta mới hiểu được sâu sắc lòng yêu nước thầm kín của ông.

Câu 5

  • Thể thơ thất ngôn trường thiên cổ kính, trang trọng, cách gieo vần tuân thủ nghiêm khắc quy luật của thơ Đường.
  • Các tiểu đối tương phản được sử dụng tinh tế: “thuyền về  – nước lại”, “nắng xuống – trời lên”,… làm rõ sự tương phản giữa thiên nhiên to lớn với con người nhỏ bé => Làm nổi bật nỗi cô đơn, sầu buồn của tác giả.
  • Các từ láy được lựa chọn, sử dụng khéo léo, làm tăng hiệu quả biểu đạt của bài thơ: láy hoàn toàn “điệp điệp”, “song song”, “lớp lớp”, “dợn dợn” ; láy âm “tràng giang”, “lơ thơ”, “đìu hiu”…
  • Các biện pháp nghệ thuật: ẩn dụ, đảo ngữ, phép đối,… làm bài thơ đặc sắc hơn.

Đọc – hiểu tác phẩm

Nhan đề 

“Tràng giang”

  • Từ Hán Việt cổ điển tạo sự trang trọng:
    • “Tràng” hay ”trường” có nghĩa là dài.
    • “Giang” có nghĩa là sông.

=> “Tràng giang” nghĩa là sông dài.

  • Tác giả dùng “Tràng giang” mà không phải “Trường giang” vì:
    • Phép điệp âm “ang” – một âm mở có âm hưởng vang xa: gợi ra chiều rộng của con sông => “Tràng giang” là một con sông vừa dài, vừa rộng.
    • Tránh sự hiểu nhầm với con sông Trường Giang ở Trung Quốc.

==> Nhan đề “Tràng giang” đã bao quát được nội dung, tư tưởng chủ đạo cùng với hình ảnh nổi bật trong bài thơ. Đồng thời gợi lên một không gian rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ – tiêu biểu cho cảm hứng sáng tác của Huy Cận lúc bấy giờ.

Lời đề từ

”Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

Là điểm tựa để triển khai bài thơ.

  • “Trời rộng”: gợi cảm giác về sự bao la, vô tận của vũ trụ.
  • “Sông dài”: tạo ấn tượng về cái vô cùng của không gian sông nước.
  • Từ láy “bâng khuâng”: cảm giác xao xuyến, buồn bã, cô đơn của nhân vật trữ tình.
  • “Nhớ”: là nỗi nhớ của con người hay nỗi nhớ của tạo vật. Dù là con người hay tạo vật đều mang hoài niệm về một điều gì đó đã khuất xa trong thời gian và không gian.

==> Lời đề từ tô đậm ấn tượng về những cảm xúc, nỗi buồn phảng phất của tác giả hòa với nỗi sầu thiên nhiên trước không gian rợn ngợp hay trước sự xa cách, chia lìa giữa sông và trời.

Khổ một

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

    • Động từ “gợn”: vừa gợi những chuyển động chậm rãi, khẽ khàng của sóng vừa gợi ra không gian tĩnh lặng, im ắng => Không gian sông nước ấy phải lặng yên đến tột cùng nên tác giả mới có thể cảm nhận được từng chuyển động nhẹ nhàng của những con sóng trên dòng “tràng giang” (nghệ thuật lấy động tả tĩnh).
    • Biện pháp tả cảnh ngụ tình kết hợp với từ láy nguyên “điệp điệp”: những con “sóng” không chỉ là sóng thiên nhiên trên sông mà còn là sóng mang nỗi buồn, tâm sự trong lòng thi nhân. Từng cơn “sóng gợn” gối lên nhau, nối tiếp nhau cho ta cảm giác tâm sự trong lòng tác giả ngày càng chồng chất. “Điệp điệp” gợi nỗi buồn trùng điệp, không dứt, đồng thời, phụ âm tắc /p/ càng làm nỗi buồn ấy như chôn kín trong lòng, không thể giãi bày thành lời.
    • “Tràng giang”: tạo ấn tượng về không gian sông nước mênh mông, bát ngát, khiến con người trở nên thật nhỏ bé, lẻ loi => tô đậm nỗi lòng chất chứa của Huy Cận.

=> Câu thơ đầu bộc lộ trực tiếp nỗi buồn, cô đơn của tác giả trước dòng sông dài, rộng.

“Con thuyền xuôi mái nước song song”

    • “Thuyền xuôi mái”: có thể hiểu theo hai nghĩa
  • Nghĩa tả thực: con thuyền lướt đi ung dung trên sông, tạo ra dòng nước song song hai bên mạn thuyền.
  • Nghĩa hợp lí hơn, hợp với hình ảnh “nước song song”: con thuyền buông xuôi mái chèo, mặc cho dòng sông đưa đẩy.
    • Từ láy “song song”: gợi cảm giác chia lìa, không có một chút gắn bó, liên quan giữa thuyền và nước, hô ứng kết hợp với từ láy “điệp điệp” ở câu thơ đầu càng khiến nỗi buồn, cô đơn thêm thắm thía.

=> Câu thơ không chỉ miêu tả tình cảnh cô đơn của tác giả mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ về những kiếp người nhỏ bé, nổi trôi vô định giữa dòng đời trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả”

  • Nhà thơ Xuân Quỳnh đã từng viết trong bài “Thuyền và biển”:

“Chỉ có thuyền mới hiểu biển mênh mông nhường nào

Chỉ có biển mới biết thuyền đi đâu về đâu”

=> Thuyền và biển có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó như một đôi tình nhân => Quy luật tự nhiên từ trước đến giờ.

=> “Thuyền về – nước lại” là trái với lẽ thường.

  • Tiểu đối “thuyền về  – nước lại”: gợi sự tan tác, phân ly đầy xót xa. Hai động từ trái hướng “về – lại” như muốn nói rằng: thuyền đã trở về, cặp bến sau một chuyến đi đầy mệt mỏi, bỏ lại nước một mình cô đơn ngoài sông xa.
  • “Sầu trăm ngả”: sáng tạo nghệ thuật độc đáo: sông mang theo nỗi buồn chia cách với thuyền theo trăm ngả đổ ra biển. Mối sầu vô hình đặt trong một không gian hữu hình to lớn khiến nỗi buồn dường như to hơn, đầy hơn, mang tầm vóc vũ trụ.

=> Cách ngắt nhịp 2/2/3 kết hợp với tiểu đối “thuyền về  – nước lại” nhấn mạnh thêm nỗi buồn, nỗi sầu nhân thế của tác giả.

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

  • “Củi” là hình ảnh tả thực, có phần giản dị, tầm thường khi đặt trong thể thơ Đường trang trọng (thơ văn trung đại thường dùng các hình ảnh tượng trưng mĩ lệ như tùng – cúc – trúc – mai) => Nét sáng tạo mới của Huy Cận, tạo nên vẻ đẹp hiện đại rất thi vị cho câu thơ.
  • Từ “củi” đứng một mình đã cho cảm giác nhỏ bé, kết hợp với số từ “một” – chỉ sự ít ỏi và tính từ “khô” – chỉ sự khô héo, úa tàn => “Củi một cành khô” khắc hoạn rõ nét nỗi cô đơn, lạc lõng của tác giả trước vũ trụ bao la.
  • “Lạc mấy dòng”: sự trôi nổi, bấp bênh giữa dòng “tràng giang” vô tận.

=> Kết hợp giữa phép đảo ngữ “củi” và biện pháp ẩn dụ, cùng với các từ ngữ chọn lọc, câu thơ tạo ấn tượng mạnh về sự buông xuông của con người đang bơ vơ, trôi nổi vô định giữa dòng chảy của cuộc đời, giữa phong ba mất nước.

  • Cách ngắt nhịp 1/3/3: nhấn mạnh thêm hình ảnh ”cành củi khô” – những thân phận nhỏ nhoi bị vùi dập trên dòng đời lênh đênh.
  • Câu thơ khiến ta nhớ đến câu thơ mà Nguyễn Du từng viết trong “Đoạn trường tân thanh”: “Hoa trôi man mác biết là về đâu”. Cũng đảo ngữ, cũng ẩn dụ, câu thơ mang theo nỗi xót xa, thương tiếc của thi sĩ với thân phận chìm nổi lênh đênh, vô bến vô bờ của Thúy Kiều – người con gái hồng nhan nhưng bạc mệnh.

=> Câu thơ cuối bộc lộ “cái tôi” của thi nhân, đồng thời là tâm trạng của bao thanh niên trong thời điểm đó – đau khổ, buồn bã vì mất nước nhưng lại bất lực, không thể làm gì.

Khổ hai

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”

  • “Cồn”: gò đất hoặc cát nổi lên giữa sông, kết hợp với tính từ nhỏ làm tăng sự nhỏ bé của cồn cát (đất), khiến “cồn nhỏ” tựa như nét chấm phá mờ khiến không gian mặt nước càng trở nên vô tận.
  • Từ láy “lơ thơ” gợi sự ít ỏi, thưa thớt, được đảo lên đầu câu nhấn mạnh thêm sự quạnh quẽ của “cồn nhỏ” giữa dòng “tràng giang” mênh mông, từ đó gợi cảm giác hoang vắng, xác xơ.
  • Những cơn gió “đìu hiu” trên những “cồn nhỏ” càng làm tăng nỗi trống vắng. Từ láy “đìu hiu” chỉ sự trống trải, tiêu điều cho ta cảm giác rằng những cơn gió như mang theo một nỗi buồn day dứt, hiu hắt.

=>Một câu thơ chỉ bảy chữ lại chứa tận ba tính từ gợi sự nhỏ bé, hoang vắng, cô tịch (“lơ thơ”, “nhỏ”, “đìu hiu”) khiến bài thơ vốn đã sầu lại càng chùng xuống hơn hẳn.

  • Huy Cận đã từng thừa nhận trong một cuộc phỏng vấn rằng câu thơ trên của ông mượn ý trong bài thơ “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn:

“Non Kì quạnh quẽ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”

Câu thơ trên là tình cảnh thê lương của người vợ đợi chồng từ biên ải trở về, được Huy Cận đưa vào “Tràng giang” không những không mất đi cảm xúc vốn có mà càng khiến “Tràng giang” sầu ảo não hơn bao giờ hết.

“Đâu tiếng làng xa vãng chợ chiều”

  • Huy Cận không chỉ cảm nhận tràng giang bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng thính giác.
  • “Đâu” có thể hiểu theo hai hướng:
    • Phủ định: Đâu có tiếng chợ vãng gì đâu.
    • Nghi vấn: Ở đâu có tiếng chợ vãng ?

=> Dù hiểu theo cách nào thì ta đều thấy được rằng tiếng chợ vãng chỉ là một thanh âm không rõ ràng, như có như không vang vọng từ một ngôi “làng xa” nào đó

=> Làm nổi bật cái tĩnh lặng vô cùng của không gian xung quanh tràng giang => Dấu vết hiện hữu của con người quá đỗi nhỏ nhoi, mong manh giữa cái bao la rợn ngợp của cảnh vật, bị chìm lấp giữa thiên nhiên đất trời.

=> Nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhà thơ càng trở nên thấm thía.

  • Tình cảnh buổi chợ trong “Tràng giang” của Huy Cận hoàn toàn trái ngược với buổi chợ trong “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi:

“Lao xao chợ cá làng Ngư phủ”

Từ láy “lao xao” – sự ồn ào, náo nhiệt, tất bật của buổi họp chợ, kết hợp với biện pháp đảo ngữ càng nhấn mạnh thêm sự đông đúc, tấp nập của chợ cá => Cảnh vật xung quanh cũng như tâm trạng của Nguyễn Trãi đều rất vui vẻ, vui tươi.

“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

  • Hai câu thơ đối nhau cùng cách ngắt nhịp 2/2/3 khiến không gian được mở ra theo cao ba chiều: chiều cao vời vợi của bầu trời, chiều dài hun hút của dòng sông và chiều rộng mênh mông của vũ trụ.
  • “Nắng xuống – trời lên”: gợi sự chuyển động mở rộng rõ rệt của không gian, nắng xuống đến đâu thì trời lên đến đó. Cặp động từ đối hướng “xuống – lên” gợi sự chia lìa xót xa, dường như nắng và trời đang bị tách rời khỏi nhau.
  • “Sâu chót vót”: sáng tạo nghệ thuật đậm chất thi vị của Huy Cận. Thực tế là khi mặt trời lặn xuống, ánh sáng phản chiếu khiến mặt sông trở thành một tấm gương trong suốt khổng lồ. Hình ảnh bầu trời trên cao in xuống mặt sông, và lúc này Huy Cận đã nhìn xuống dòng sông. “Sâu” miêu tả dòng sông còn “chót vót” khắc họa chiều cao thăm thẳm, vô tận của bầu trời, tạo thành một sự kết hợp độc đáo dành riêng cho “bầu trời trong lòng con sông”.
  • “Sông dài, trời rộng”: gợi nhớ đến lời đề từ, nhấn mạnh thêm sự cô đơn, buồn bã, suy tư của tác giả trước trời nước mênh mông, vắng lặng.
  • “Cô liêu” được tác giả chọn lựa để đưa vào thi phẩm mà không phải là “cô đơn” dù hai từ này đều dùng để chỉ sự tịch mịch, trống trải. Đó là vì “cô đơn” chỉ là cảm giác, trạng thái nhất thời nhưng “cô liêu” lại là sự cô độc mãi mãi => Bến đò im ắng, vắng vẻ => Sự sống con người càng thêm mờ nhạt giữa bao la đất trời.

=> Người xưa thường bảo rằng: Muốn biết một nơi có trù phú, giàu có hay không thì hãy “nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ” – tức là hãy tìm đến chợ và bến sông của nơi đó. Mà trong “Tràng giang”, chợ chỉ là một buổi chợ chiều đang dần giải tán, còn bến đò thì lại vắng vẻ, không một bóng khách => Cảnh vật càng trở nên rộng hơn, cao hơn, sâu hơn lại càng thêm vắng lặng, lẻ loi mà sự sống thì lại yếu ớt, mong manh.

=> Tác giả dùng nguyên tắc tương xứng của phép đối thơ Đường tạo nên vẻ hài hoa, trang trọng của không gian thiên nhiên; bút pháp “họa vân hiển nguyệt” (vẽ mây nẩy trăng) => Cảnh vật càng vắng lặng, con người càng nhỏ bé, càng “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh).

Khổ ba

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”

  • “Bèo” : hình ảnh ẩn dụ cho thân phận con người (như trong câu hát “Bèo dạt mây trôi”).
  • Câu hỏi tu từ “Bèo dạt về đâu”: mang âm hưởng trầm buồn, mênh mang, gợi nhiều liên tưởng về cuộc sống bấp bênh, trôi nổi vô định của con người.
  • Điệp từ “hàng”: gợi cảm giác nỗi buồn như trải rộng trên sông nước “tràng giang”, đồng thời thể hiện nỗi băn khoăn, bế tắc trước cuộc sống nhiều biến động, đổi thay.

=> Những cánh “bèo” nối tiếp nhau trổi dạt vô định trên sông dài, không biết đi đâu về đâu như những con người phải sống trong thời kì thực dân nửa phong kiến bấy giờ => Nỗi buồn về thân phận cá nhân đã thăng cấp, mở rộng thành nỗi buồn thời đại.

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật”

  • “Chuyến đò”“cầu” : phương tiện qua lại, thể hiện sự giao nối đôi bờ, tín hiệu của sự sống thân mật, ấm cúng => “Không một chuyến đò ngang”, “không cầu” nghĩa là không có sự giao lưu nào, chỉ có sự cô đơn hay cảnh vật trải ra mênh mông mà thôi.
  • Điệp từ “không” lặp lại hai lần như hai cái lắc đầu buồn bã và tuyệt vọng, mở ra cả một trời cô đơn, trống trải.
  • “Chút niềm thân mật” : niềm thiết tha, khát khao giao cảm với đời đã bị cắt đứt khiến tác giả cảm thấy bế tắc vô cùng trước cuộc sống.

=> Hai câu thơ thiếu vắng hoàn toàn sự xuất hiện của con người mà chỉ tập trung miêu tả cảnh thiên nhiên, gợi sự hoang vắng của không gian xung quanh.

“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

  • “Bờ xanh” tức là cỏ cây; “bãi vàng” là bãi cát.
  • Từ láy “lặng lẽ” được đưa lên đầu câu thơ kết hợp với âm điệu trầm buồn của lời thơ càng tô đậm cái cô tịch, vắng lặng của cảnh => Thấy được nỗi cô đơn tột cùng của một tâm hồn yêu đời, thiết tha với cuộc sống nhưng lại không giao hòa được với cuộc sống, từ đó thể hiện thái độ phủ nhận thực tại của tác giả.

=> Cảnh đẹp, có sắc, có màu, có độ dài, độ rộng nhưng lại thấm đẫm nỗi buồn, càng làm tăng thêm sự xao động trong lòng tác giả. Tâm trạng của thi sĩ lúc này cũng chính là tâm trạng của một lớp người nặng lòng với thời thời thế.

Khổ bốn

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”

  • Từ láy “lớp lớp” : tạo ấn tượng về từng lớp mây một chất chồng lên nhau, tạo thành một núi mấy cao khổng lồ.
  • “Bạc” : ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt chiếu vào những đám mây khiến nó lung linh như núi bạc => “Núi bạc” không phải là quả núi có nhiều bạc mà là một núi mây do “lớp lớp mây cao” và ánh sáng hoàng hôn tạo thành.
  • Động từ “đùn” : gợi nhớ đến thi phẩm “Thu hứng” của Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Cùng trong trạng thái vận động nhưng nếu không gian trong thơ Đường thấp, tối thì không gian trong thơ Huy Cận lại được nâng lên cao rộng, hùng vĩ. 

=> Bức tranh thiên nhiên không còn là cảnh “Tràng giang” mà mở rộng ra cả trời đất, bắt đầu từ chân trời xa xôi. Khung cảnh chiều tà vốn ảm đạm nay bỗng bừng sáng trong thơ của Huy Cận.

“Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa”

  • Hình ảnh cánh chim cô độc, bay nghiêng trong ánh hoàng hôn vốn là tín hiệu thẩm mĩ, ước lệ, tượng trưng trong thơ cổ điển:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”

(Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan)

                                          “Chim hôm thoi thót về rừng”

  (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

  • Dấu hai chấm giữa dòng giải thích mối quan hệ giữa cánh chim và bóng chiều : Chim phải nghiêng cánh vì chiều đột ngột sa xuống, nắng chiều đè nặng lên đôi cánh nhỏ làm chúng bị nghiêng vì không chịu nổi sức nặng. 
  • Từ “sa” trong“bóng chiều sa” : gợi một ấn tượng mạnh: Bóng chiều như một cái gì đó rất cụ thể, có hình khối, đột ngột rơi xuống rất nhanh, rất nặng nề.

=> Cánh chim nhỏ lại phải mang cả sức nặng của buổi chiều tà => Tô đậm hơn cái mênh mông của đất trời, cái hùng vĩ của thiên nhiên.

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

  • Từ láy “dợn dợn” : khác với dờn dợn hay rờn rợn làm giảm mức độ mà tăng cảm xúc đi kèm; có nghĩa gợn lên, “vời” – xa, “con nước” – vừa gợi lên hình ảnh những đợt sóng nhỏ gợn lên liên tiếp mãi không dứt, trải rộng xa tít tắp vừa gợi cảm giác tâm lí => Nhìn thấy con nước “tràng giang” dợn dợn, nỗi nhớ quê của nhà thơ cũng dợn dợn theo.
  • Hai câu thơ còn gợi về nỗi lòng “nhật mộ hương quan” ngàn năm của Thôi Hiệu trong “Hoàng Hạc lâu”:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

        Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Nhà thơ Tản Đà dịch:

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”

  • Nếu Thôi Hiệu cần “khói sóng” để bộc lộ nỗi nhớ nhà thì Huy Cận dù “không khói” – không cần bất kì hình ảnh gợi nhắc nào để nhớ về quê hương, vì trong tim ông có lẽ nỗi nhớ ấy luôn thường trực => Nỗi niềm nhớ nhung của Huy Cận sâu sắc, da diết, cháy bỏng hơn so với Thôi Hiệu.

=> Dù mượn ý thơ của thi nhân khác, mức độ cảm xúc trong thơ của Huy Cận hoàn toàn cao hơn

=> Nỗi buồn trong sáng bắt nguồn từ lòng yêu nước kín đáo của tác giả “Tràng giang ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn tổ quốc” (Xuân Diệu).

=> Tâm trạng chung của những người dân mất nước lúc bấy giờ, nhất là thế hệ thanh niên trí thức yêu nước trong những năm tháng ngột ngạt, bế tắc.

  • Chữ “không” đứng đầu câu: thể hiện ý thức của nhà thơ về tâm sự của mình, về nỗi buồn của một cái tôi lẻ loi giữa vũ trụ.

=> Xưa kia, đứng trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên sông, ngăn tầm mắt về cố hương mà tình quê thổn thức. Nay, đứng ngay trên quê hương, Huy Cận không cần cái mờ ảo của khói sóng tác động vào thị giác, tri giác mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà cũng là tình yêu quê hương thầm kín – được khơi nguồn từ tâm ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim – lặng lẽ mà sâu nặng, mãnh liệt vô cùng:

“Một chiếc linh hồn nhỏ

       Mang mang thiên cổ sầu.”

(Ê chề – Huy Cận)

Tổng kết

Nội dung

Bài thơ “Tràng giang” mang vẻ đẹp được kết hợp tinh tế, hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên vũ trụ rộng lớn nhưng cũng thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín, tha thiết.

Nghệ thuật

  • Giao thoa giữa cổ điển và hiện đại : Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”, còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, cảm xúc, cách dùng từ mới lạ, độc đáo.
  • Nghệ thuật tạo hình của tác giả vô cùng tài hoa, vừa hết sức cụ thể, đời thường (hình ảnh bèo, chuyến đò, cầu, củi); vừa thơ mộng, hùng vĩ (hình ảnh mây cao, núi bạc); vừa thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của thi nhân (nỗi buồn, sầu, cô đơn).
  • Kết hợp nhuần nhuyễn những nét cổ điển đậm đà phong vị Đường thi (ý thơ của Thôi Hiệu trong “Hoàng Hạc lâu”, tứ thơ Đỗ Phủ trong “Thu hứng”…).
  • Vận dụng tự nhiên lối đối, hệ thống từ láy dày đặt (10 từ trong 16 câu thơ) mang lại hiệu quả biểu đạt cao, cách ngắt nhịp truyền thống (chủ yếu là 2/2/3, 4/3 hay 2/5).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Người đóng góp
Comments to: Tràng giang