Tìm hiểu chung

Tác giả

Hồ Chí Minh (1890 – 1969) quê ở Nam Đàn (Nghệ An), sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nho giáo yêu nước.

Tác phẩm

Hoàn cảnh sáng tác

  • Tháng 8/1942, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc tranh thủ sự viện trợ của thế giới, nhưng vừa đến Túc Vinh (Quảng Tây), Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ.
  • Cảm hứng của bài thơ được gợi lên trên đường chuyển lao gian khổ của Bác từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942.

Xuất xứ

“Chiều tối” (Mộ) là bài thơ thứ 31 trong tập thơ “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù).

Chủ đề

Khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh: dù hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu vẫn luôn hướng về sự sống và ánh sáng cũng như tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước của Người.

Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt.

Hướng dẫn học bài

Câu 1

  • “Cô vân” dịch thành “chòm mây” ; “mạn mạn” dịch thành “trôi nhẹ” : phần dịch thơ không làm rõ được dáng vẻ cô đơn cũng như nhịp bay chầm chậm, từ từ của đám mây.
  • “Thiếu nữ” dịch thành “cô em” : phần dịch thơ làm mất đi sự ý vị, uyển chuyển của nguyên tác, không phù hợp với phong cách thơ của Hồ Chí Minh.

Câu 2

Hai câu thơ đầu là bức tranh tả cảnh thiên nhiên đẹp nhưng phảng phất buồn, thấm đậm phong vị thơ Đường.

  • Không gian: bầu trời rộng lớn.
  • Thời gian: chiều tối.
  • Điểm nhìn: từ trên cao.
  • Hình ảnh thiên nhiên:
    • Cánh chim mỏi bay về tổ : thường mang ý nghĩa biểu trưng cho buổi chiều tà; có sự tương đồng về trạng thái bên trong với người tù sau một ngày vất vả trên đường chuyển lao. Cánh chim còn là một thi liệu quen thuộc xuyên suốt tập thơ “Nhật kí trong tù”, gợi sự tự do -> Bác mong mỏi có được sự tự do như cánh chim mà bay lượn muôn nơi. “Chim về tổ” cũng thể hiện mong ước của Bác Hồ về một ngày được trở về quê nhà.
    • “Cô vân mạn mạn độ thiên không” : đám mây cô đơn chuyển động chậm chậm, lững lờ trôi giữa bầu trời mênh mông gợi nên tình cảnh lẻ loi của người từ ở nơi đất khách quê người, số phận lênh đênh, mang nặng tâm sự.
  • Cảm xúc của tác giả: lạc quan, yêu thiên nhiên, cuộc sống, khát vọng được tự do.

Câu 3

Hai câu thơ cuối là bức tranh cuộc sống dân dã. bình dị với hình ảnh trung tâm là người phụ nữ lao động được khắc họa đầy hiện thực, cụ thể bằng bút pháp hiện đại.

  • Không gian: xóm núi nhỏ hẹp.
  • Thời gian: tối.
  • Điểm nhìn: từ dưới thấp.
  • Hình ảnh đời sống:
    • “Sơn thôn thiếu nữ” : người thiếu nữ trẻ trung, tràn đầy sức sống khỏe khoắn – hình ảnh rất thực về những người phụ nữ lao động nghèo của Trung Quốc.
    • “Ma bao túc – Bao túc ma hoàn” : điệp ngữ vòng gợi nên

Vòng quay của cối xay ngô.

Sự kiên trì, bền bỉ và việc lao động vất vả của người thiếu nữ.

Sự vận động dịch chuyển của không gian và thời gian.

    • “Lô dĩ hồng” : bếp than hồng làm rực cháy cả đêm tối, xua tan đi cái lạnh giá và mệt mỏi của một ngày dài gian khổ, sưởi ấm cả cơ thể và tinh thần của những người lao động.

Câu 4

  • Nghệ thuật tả cảnh: kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển (bút pháp tả cảnh ngụ tình, bút pháp chấm phá, lấy điểm tả diện, những thi liệu cũ,…) với nét hiện đại (tả thực, hình ảnh gần gũi, dân dã).
  • Ngôn ngữ trong thơ: được chọn lọc tinh tế, kết hợp độc đáo, sử dụng khéo léo,  vừa gợi tả vừa gợi cảm (cô vân, quyện điểu), tạo nhịp điệu thơ đa dạng (mạn mạn), cũng như làm sáng bừng cả tác phẩm (hồng).

Đọc – hiểu tác phẩm

Hai câu thơ đầu

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Cảnh thiên nhiên được phác họa bằng những nét chấm phá cổ điển: cánh chim và áng mây.

  • “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ” : hình ảnh chim bay về tổ thường mang ý nghĩa biểu tượng cho buổi chiều tà:

”Chim bay về núi, tối rồi”

                                    (Ca dao)

hay

”Chim hôm thoi thót về rừng”

                                                            (Truyện Kiều – Nguyễn Du )

  • Cánh chim trong những dòng thơ trên chỉ đơn giản là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài mỏi mệt kiếm ăn. Còn trong thơ của Bác, cái hay nằm ở chỗ, Người nhìn cánh chim bay mà thấy được “quyện điểu” – dáng bay có cả sự mỏi mệt => Nhà thơ thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia => Đây chính là tình cảm nhân đạo của Hồ Chí Minh – chỉ một cái nhìn nhưng bộc lộ rõ tình cảm nhân ái bao la của người đối với cảnh vật, đúng như Tố Hữu đã từng viết:

”Bác ơi tim Bác mênh mông thế

     Ôm cả non sông, mọi kiếp người”

                                                (Bác ơi!)

=> Ta thấy thêm một nét nghĩa mới: người tù dường như cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người như cũng muốn dừng chân sau một ngày đày ải:

”Năm mươi ba cây số một ngày

   Áo mũ dầm mưa rách hết giày”

                                                  (Mới đến nhà lao Thiên Bảo – Hồ Chí Minh)

  • ”Cô vân mạn mạn độ thiên không” : gợi tả hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu trời. Bản dịch thơ khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ “cô” và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy ”mạn mạn”. Câu thơ gợi nhớ câu thơ của Thôi Hiệu trong “Hoàng Hạc Lâu”:

”Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay”

Và câu thơ của Nguyễn Khuyến trong ”Thu điếu”:

”Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”

  • Nhưng mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay mang cái khắc khoải mơ hồ của người trước hư không mà là chòm mây cô đơn đang chậm trôi giữa bầu trời bao la. Chòm mây như có linh hồn, như mang cái tâm trạng lẻ loi đơn độc và cái băn khoăn trăn trở chưa biết tương lai phía trước sẽ đi về đâu của người tù nơi đất khách.

==> Hai câu thơ là cảnh chiều hôm êm ả và thanh bình của cuộc sống thường ngày nhưng đượm buồn. Cảnh buồn đồng điệu với cánh chim mệt mỏi gợi niềm ước mong sum họp. Chòm mây đơn dộc lững lờ trôi gợi thân phận lênh đênh trên đất khách quê người. Mặt khác, đây cũng là hai dòng thơ của một tâm hồn đã vượt lên trên cảnh ngục tù, xiềng xích và trói buộc.

==> Chân dung tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh – một con người yêu tha thiết vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời và cuộc sống, dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời => Phong thái ung dung tự tại, ý chí bản lĩnh phi thường, trong cảnh tù đầy khắc nghiệt vẫn có thể cảm nhận thiên nhiên một cách sâu sắc và tinh tế.

Hai câu thơ cuối

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng)

Điểm nhìn của tác giả chuyển từ cao xa đến thấp. Đó không còn là những nét chấm phá mang tín ước lệ cổ điển mà là hình ảnh người phụ nữ lao động đầy hiện thực, cụ thể trong một buổi chiều nơi núi rừng heo hút. Trong những bài thơ vịnh cảnh chiều hôm nổi tiếng thời xưa cũng thấp thoáng bóng người:

”Lom khom dưới núi, tiều vài chú

 Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”

                                                          (Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

=> Chỉ có con người mà thiếu vắng sự sống, hình ảnh con người chỉ làm tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời, thiên nhiên.

  • ”Sơn thôn thiếu nữ” : hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, sống động, và chính cuộc sống lao động bình dị đó càng đáng trân trọng biết bao giữa núi rừng âm u. Cụm từ ”Sơn thôn thiếu nữ” dịch là ”Cô em xóm núi” trên bình diện nghĩa thì không có gì sai nhưng không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với người con gái, cũng như sự ý vị, uyển chuyển trong ngôn từ của tác giả.

=> Hình ảnh “sơn thôn thiếu nữ” ở vị trí trung tâm của bức tranh đã xua đi cái vắng lặng của buổi chiều bên núi, mang đến cho bức tranh thơ sức sống, tạo nên nét hiện đại cho bài thơ. Bức tranh thiên nhiên đã trở thành bức tranh về cuộc sống con người. Sự chuyển đổi ấy đã thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. 

  • Từ ”tối” ở câu thơ thứ ba phần dịch thơ bị thừa ra, làm mất đi tính hàm súc của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Cái thú vị ở nguyên tác là không nói đến “tối” mà người đọc vẫn cảm nhận được trời “tối” và thời gian đang dần trôi từ chiều tà đến đêm khuya.
  • Điệp ngữ liên hoàn ”ma bao túc – bao túc ma hoàn” :
    • Vòng quay không dứt của động tác xay ngô, thể hiện sự lao động miệt mài, kiên trì, bền bỉ của cô gái.
    • Thời gian đang vận động, đang xoay theo từng vòng quay của cối xay ngô.
    • Không gian đang dần thu nhỏ, từ bầu trời bao la nhỏ dần vào bếp lửa hồng.
    • Đem lại cho bài thơ chút hơi ấm của con người và cuộc sống lao động.
  • ”Lô dĩ hồng” : Ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối, xua tan đi cái lạnh lẽo hiu hắt của núi rừng. Chữ “hồng” nằm ở cuối cùng được xem là ”nhãn tự” của bài thơ. Nó đã đem lại sự ấm áp cho đêm tối, xua đi bao nỗi nhọc nhằn, mệt mỏi trong ba câu thơ đầu. Mọi cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn đã biến mất, nhường chỗ cho niềm vui và sự lạc quan => Ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc lò than bình dị của ”sơn thôn thiếu nữ” mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh.

==> Tâm hồn nhà cách mạng đã vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt để đồng cảm với niềm vui đời thường. Bài thơ có sự chuyển động từ cảnh âm u, tăm tối cho đến ánh lửa rực hồng, ấm áp, từ nỗi buồn cho đến niềm vui. Nó cho thấy cái nhìn tràn đầy lạc quan yêu đời và tình yêu thương nhân dân của một con người “chỉ biết quên mình cho hết thảy”.

Tổng kết

Nội dung

Bài thơ là bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống con người thật sống động. Qua bức tranh ấy, những nét đẹp tâm hồn của Bác được bộc lộ: lòng yêu thiên nhiên, con người, cuộc sống, phong thái ung dung và niềm lạc quan, nghị lực kiên cường vượt lên mọi hoàn cảnh khắc nghiệt, tối tăm – sự giao thoa tinh tế giữa cái tình và chất thép.

Nghệ thuật

  • Bài thơ là tiêu biểu cho sự kết hợp hài hòa của hình ảnh cổ điển và tinh thần hiện đại
    • Cổ điển ở thể thơ thất ngôn tứ tuyệt hàm súc, bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu xưa cũ “chim” hay “mây”.
    • Hiện đại ở việc miêu tả con người như là trung tâm của bức tranh thiên nhiên, ở mạch thơ “vận động hướng về sự sống, ánh sáng, tương lai”.
  • Ngôn ngữ thơ hàm súc nhưng giàu sức gợi tả, gợi cảm khiến bài thơ không chỉ chân thực mà còn mang cả tâm hồn của con người.
  • Những hình ảnh quen thuộc, bình dị, sáng tạo, góp phần tô điểm cho bức tranh thiên nhiên và tình yêu của Bác, mang lại hiệu quả biểu đạt cao

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Người đóng góp
Comments to: Chiều tối (Mộ)