1. Ngữ văn lớp 11

Chữ người tử tù

Tìm hiểu chung

Tác giả

Nguyễn Tuân (1910-1987)
  • Nguyễn Tuân (1910-1987) quê ở làng Nhân Mục, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
  • 1929: Ông bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt. Sau đó, bị đi tù vì “xê dịch” qua biên giới trái phép
  • Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo
  • 1941, Nguyễn Tuân bị bắt giam một lần nữa vì giao du với những người hoạt động chính trị
  • Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.
  • Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam
  • 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 

Cuộc đời

  • Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông gắn bó với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông tha thiết yêu tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn chương của dân tộc, phong cảnh đẹp của quê hương đất nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa, chơi chữ đẹp, những món ăn truyền thống
  • Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là “Chủ nghĩa xê dịch”
  • Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh… Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật ngôn từ
  • Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí là “khổ hạnh”

Sự nghiệp sáng tác

Quá trình sáng tác và những đề tài chính
Trước Cách mạng tháng Tám
  • Nguyễn Tuân là một cây bút văn xuôi lãng mạn thời kì cuối
  • Chủ yếu xoay quanh ba đề tài: “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một thời”, và “đời sống truỵ lạc”
  • Thể loại: Thơ, bút kí, truyện ngắn
  • Tác phẩm chính: Một chuyến đi (1938)Vang bóng một thời (1939)Thiếu quê hương (1940)Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
  • Nội dung: Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và vẻ đẹp văn hóa cổ truyền dân tộc
Sau Cách mạng tháng Tám 1945 – 1975
  • Đề tài: Nguyễn Tuân trở thành nhà văn cách mạng chân thành đem ngòi bút phục vụ cho cuộc chiên đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước
  • Thể loại: Tùy bút, bút kí
  • Hình tượng chính: Nhân dân lao động và người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang. Họ là những người dũng cảm và tài hoa
  • Tác phẩm chính: Tùy bút “Sông Đà” (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976)
  • Nội dung: Ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân  trong chiến đấu và lao động
Phong cách nghệ thuật

Đối với Nguyễn Tuân “Văn chương trước hết phải là văn chương”. Vì thế, ông có một phong cách độc đáo và sâu sắc, bao trùm là chất “ngông”. Chất “ngông” trong tác phẩm Nguyễn Tuân có màu sắc riêng: vừa truyền thống vừa hiện đại, thể hiện:

Mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ sự tài hoa và uyên bác:

  • Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ: mỗi nhân vật dù thuộc loại người nào cũng đều phải là những nghệ sĩ xuất chúng trong nghề nghiệp của mình (Huấn Cao, ông lái đò…)
  • Khám phá, phát hiện mọi sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ (con sông Đà)
  • Tô đậm những phẩm chất phi thương của con người và cảnh vật (Ông lái đò như một dũng tướng, sông Đà hung bạo, hiểm ác…)
  • Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật, khoa học khác nhau (điện ảnh, âm nhạc, hội họa, Llch sử, địa lý, quân sự,bóng đá,võ thuật để sáng tạo các hình tượng văn chương)

Văn phong độc đáo

  • Kho từ vựng phong phú và có khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng và co duỗi 1 cách nhịp nhàng nên văn của Nguyễn Tuân đĩnh đạc, cổ kính và cũng rất trẻ trung hiện đại.
  • Thành công ở thể loại tùy bút và đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam

Phong cách nghệ thuật có sự thay đổi

  • Trước Cách mạng tháng Tám: Nguyễn Tuân quan niệm văn minh, cơ khí hiện đại và xã hội đồng tiền giết chết cái đẹp. Ông đi tìm cái đẹp “vang bóng một thời”
  • Sau Cách mạng tháng Tám: Nguyễn Tuân không đối lập xưa và nay mà tìm thấy sự gắn bó giữa quá khứ và hiện tại và tương lai. Ông phát hiện chất tài hoa, nghệ sĩ không chỉ ở nhân vật phi thường mà ở những người dân bình thường: lái đò, lái xe, dân quân, bộ đội…

Tác phẩm

Tác phẩm “Vang bóng một thời”

  • Vang bóng một thời khi in lần đầu (1940) gồm 11 truyện ngắn
  • Nhân vật trong tác phẩm chủ yếu là những nho sĩ cuối mùa, tuy buông xuôi bất lực nhưng quyết giữ “thiên lương và sự trong sạch của tâm hồn” bằng cách thực hiện cải đạo sống của người tài tử
  • Mỗi truyện dường như đi vào một cái tài, một thú chơi tao nhã, phong lưu của những nhà nho tài hoa lỡ vận: chơi chữ, thưởng thức chén trà buổi sớm, làm một chiếc đèn trung thu . . . Ở “Vang bóng một thời” chỉ có Bữa rượu máu với lối viết “lạnh” sử dụng hình tượng cơn gió trốt báo oán là nhằm chủ đích chĩa ngòi bút tố cáo hận thù vào thực dân Pháp và trừ Khoa thi cuối cùng có tính chất dạo đầu cho loại truyện Yêu ngôn; ngoài ra 10 truyện còn lại, có thể coi như 10 nén tâm hương nguyện cầu cho cái đẹp cổ truyền Việt Nam, đó là: uống đẹp (Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm) , nhắm đẹp (Hương cuội) , chơi đẹp (Thà thơ , Đánh thơ, Đèn đêm thu tức Một cảnh thu muộn) , ứng xứ đẹp (Ngôi mả cũ) , hoa tay đẹp (Trên đỉnh non Tản), tài nghệ đẹp (Những người bất đắc chí) và nhân cách đẹp (Chữ người tử tù)
  • Qua tập truyện này, nhà văn không chỉ thể hiện sự nuối tiếc vẻ đẹp của một thời quá vãng mà còn bộc lộ niềm trân trọng và tự hào về truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc

Tác phẩm “Chữ người tử tù”

Xuất xứ – Hoàn cảnh sáng tác
  • Truyện ngắn “Chữ người tử tù ” lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng” , in năm 1938 trên tạp chí “Tao đàn”, sau đó được tuyển in trong tập truyện “Vang bóng một thời”, đổi tên thành “Chữ người tử tù” 
  • Đây là truyện ngắn xuất sắc nhất trong tập truyện, khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao, một anh hùng và một nghệ sĩ. Dù chí lớn không thành nhưng lúc nào cũng hiên ngang, bất khuất
  • Truyện được sáng tác dựa trên cơ sở những câu chuyện mà Nguyễn Tuân nghe được từ người cha – cụ tú Nguyễn An Lan về nhà nho tài hoa – anh hùng Cao Bá Quát
Tóm tắt tác phẩm

Truyện kể về cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và thầy trò viên quản ngục trong hoàn cảnh éo le. Người tử tù Huấn Cao có tài, khí phách hiên ngang và nhân cách cao đẹp. Thầy trò viên quản ngục ngưỡng mộ tài viết chữ của ông Huấn, ao ước có được chữ ông để treo trong nhà nên biết đãi Huấn Cao. Cảm kích trước sự đối đãi tử tế, ân cần và tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đồng ý cho chữ. Cảnh cho chữ diễn ra trong một buồng giam chật chội tăm tối nhưng thật đẹp. Sau khi cho chữ, ông khuyên viên quản ngục về quê, bỏ nghề để giữ thiên lương. Viên quản ngục cảm động, vâng lời ông Huấn.

Chủ đề

Truyện ca ngợi vẻ đẹp tài hoa, khí phách và thiên lương của hình tượng Huấn Cao, thể hiện quan niệm về cái đẹp và khẳng định sự bất tử của cái đẹp, đồng thời kín đáo bộc lộ tình yêu đất nước của Nguyễn Tuân

Tìm hiểu tác phẩm

Bối cảnh truyện

  • Không gian: Diễn biến việc xin chữ – cho chữ diễn ra tại một nhà lao tỉnh Sơn, nơi giam giữ những tù nhân và những tù nhân chờ thi hành án
  • Thời gian: Những ngày cuối ùng của Huấn Cao

Tình huống truyện

Nguyễn Tuân xây dựng tình huống truyện độc đáo, kịch tính:

  • Tình huống độc đáo: Cuộc gặp gỡ kì là giữa Huấn Cao – người anh hùng có tài viết chữ đẹp – với thầy trò viên quản ngục – những người ngưỡng mộ tài năng, ao ước có được chữ của Huấn Cao. Họ thuộc hai dạng người vừa đối lập vừa hòa hợp
    • Trên bình diện xã hội: họ là những kẻ đối nghịch, một bên là những người đại diện Nhà nước, bảo vệ trật tự xã hội, còn một bên là những người đương đấu tranh để lật đổ cái xã hội thối nát ấy
    • Trên bình diện nghệ thuật: họ đồng điệu, hòa hợp, cùng hết lòng yêu cái đẹp, một bên là chủ thể sáng tạo cái đẹp, một bên là khách tri âm thưởng thức, nâng niu, trân trọng, gìn giữ cái đẹp
    • Trên bình diện đạo đức: họ đều là những người có nhân cách đẹp, trọng nghĩa khí
  • Tình huống kịch tính: ban đầu Huấn Cao có sự hiểu lầm, tỏ ý khinh bạc viên quản ngục. Cuối cùng hiểu ra, Huấn Cao đồng ý cho chữ, họ trở thành tri kỉ

Tình huống tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện, khắc họa nổi bật vẻ đẹp nghệ sĩ – anh hùng của Huấn Cao cùng tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục

Nhân vật Huấn Cao

Có thể thấy nhân vật Huấn Cao là trung tâm của tác phẩm được xây dựng từ nguyên mẫu Cao Bá Quát. Phẩm chất chí sĩ và nghệ sĩ của nhà Nho này được Nguyễn Tuân khai thác, xây dựng nên hình tượng Huấn Cao. Ở Huấn Cao có sự kết tụ tài hoa giữa tài năng, khí phách và thiên lương. Với sáng tạo độc đáo của Nguyễn Tuân đã làm cho chân dung nhân vật hiện lên khách quan, vừa như đòn bẩy tôn thêm vẻ đẹp nhân vật. 

Kết quả hình ảnh cho chữ người tử tù

Vẻ đẹp tài hoa

Huấn Cao là một người có tài năng khác thường.

  • Đó là tài viết chữ Hán rất đẹp. Vẻ đẹp này của Huấn Cao gợi nhớ đến thú chơi chữ của người xưa và nghệ thuật thư pháp của dân tộc.
    • Đó là một thú chơi cao sang dành cho những người có học hành, có khiếu thẩm mỹ, biết thưởng thức cái đẹp của chữ và cái sâu của nghĩa.
    • Viết chữ đẹp là một sáng tạo nghệ thuật. Người viết chữ đẹp là một nghệ sĩ.
    • Những nét chữ đẹp với nét thanh, nét đậm, mềm mại mà sắc nét lưu lại trên giấy, lụa, gỗ, đá, bức hoành phi, trung đường, tứ bình… đều là những tác phẩm nghệ thuật, thể hiện tính cách tài hoa của người nghệ sĩ.
    • Chữ trong tác phẩm thư pháp không phải là sản phẩm của sự khéo tay hay thạo nghề của một người thợ.
    • Mỗi lần đặt bút đối với nhà thư pháp là một lần tài hoa sáng tạo và mọi nét bút là sự kết tụ của người nghệ sĩ.
  • Vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao còn được thể hiện gián tiếp qua câu chuyện của thầy trò viên quản ngục.
    • Tuy chưa xuất hiện nhưng tài viết chữ đẹp của Huấn Cao đã được viên quản ngục và thầy thơ lại nhắc đến trong lời nói ngưỡng mộ người nổi tiếng khắp vùng “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”
    • Họ nhận xét chữ ông Huấn “đẹp lắm vuông lắm”, thật vinh hạnh cho ai có được chữ Huấn Cao vì đó là một tác phẩm nghệ thuật vô giá “có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”.
    • Viên quản ngục từ lâu cũng có niềm ao ước “một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.

Bởi thế, được tin tiếp nhận đoàn tử tù gồm sáu người, trong đó có Huấn Cao, viên quản ngục đã chuẩn bị tiếp đãi chu đáo. Và ông đặt chữ của Huấn Cao cao hơn danh dự và tính mạng của mình. Ông bất chấp luật pháp, không tiếc tính mạng, ông chấp nhận chịu nhục để xin được chữ của Huấn Cao. Thái độ ấy của viên quản ngục cho thấy tài hoa của Huấn Cao đạt đến mức khác thường.

  • Vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao còn được thể hiện trực tiếp qua lời thừa nhận của chính ông. Ông nói với thầy thơ lại “Chữ thì quý thực”, quý vì đó là những nét chữ đẹp của một người nghệ sĩ khó tính, ít chịu cho chữ ai, và càng quý vì thể hiện sự cương trực của người có chí khí “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời người”

 

→ Huấn Cao thật sự là một nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. Qua việc ca ngợi tài hoa của Huấn Cao, Nguyễn Tuân bày tỏ thái độ trân trọng nét đẹp của nghệ thuật thư pháp và tiếc nuối cho vẻ đẹp ấy đang lụi tàn trong xã hội lúc bấy giờ. Tương tự như nỗi niềm của Vũ Đình Liên trong bài thơ “Ông đồ” 

“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”

Vẻ đẹp khí phách

Huấn Cao còn hiện lên với tư thế của một anh hùng có khí phách. Đây mới là nét mới của Huấn Cao so với các nhân vật khác trong “Vang bóng một thời”.

  • Cũng từ câu chuyện của thầy trò viên quản ngục, ta thấy Huấn Cao không chỉ là một người viết chữ đẹp mà còn là một đấng anh hùng “văn võ toàn tài”, “có tài bẻ khóa và vượt ngục”. Với cái tài này Huấn Cao thể hiện niềm khao khát tự do, sự phóng khoáng trong tính cách.
  • Vẻ đẹp khí phách của Huấn Cao còn thể hiện ở chí lớn. Ông từ công danh, không tiết tính mạng để xả thân vì nghĩa lớn, đứng về phía nhân dân, dấy binh chống lại triều đình, trở thành kẻ phản loạn, bị bị bắt và bị khép vào tội đại nghịch, nhận án tử.
  • Dù lý tưởng không thành, Huấn Cao bị giải đến nhà lao tỉnh Sơn, chờ thi hành án nhưng khi xuất hiện và trong những ngày lưu lại tại đây, tư thế ông lúc nào cũng hiên ngang bất khuất.
    • Ông không sợ uy quyền, không sợ kẻ đang nắm giữ vận mệnh của mình.
      • Khi bị giải đến nhà lao, trên cổ là chiếc gông dài tám thước, bằng gỗ lim, nặng bảy đến tám tạ, trước mặt là bọn lính, mà Huấn Cao vẫn thản nhiên nói với những người bạn của mình “Rệp cắn tôi đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ không đi”. Mặc kệ lời đe dọa của tên lính áp giải, Huấn Cao thản nhiên dỗ gông “Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Âm thanh dỗ gông như một đòn giáng trả mãnh liệt vào không gian nhà ngục – đại diện cho trật tự xã hội. Cái vẻ thản nhiên làm theo ý mình dù đang trong thân phận một tử tù đã toát lên một cốt cách ngạo nghễ, ung dung. 
      • Viên quản ngục biệt đãi Huấn Cao, vào tận phòng giam nói những lời tử tế “ Ngài có cần gì xin cứ nói. Tôi sẽ cố gắng chu tất”. Vậy mà Huấn Cao trả lời bằng thái độ khinh bạc, ông mắng thẳng “Người hỏi ta muốn gì. Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây” và tỏ thái độ chờ sẵn “một trận lôi đình báo thù của viên quan cai ngục bị sỉ nhục”“đến cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Từ lối trả lời đến suy nghĩ, thái độ, ta nhận xét thấy vẻ hiên ngang đáng nể của ông Huấn, gợi đúng tiết tháo của nhà nho Cao Bá Quát:

“Bần tiện bất năng di

Uy vũ bất năng khuất”

    • Ông coi thường cái chết của mình.
      • Trong những ngày bị giam, chờ thi hành án tử, Huấn Cao không hề tỏ ra buồn bã, lo lắng, căng thẳng như lẽ thường mà vẫn thản nhiên nhận rượu thịt do viên quản ngục sai thầy thơ lại mang đến tận phòng giam, ông coi đó như là “một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”.
      • Khi thầy thơ lại báo tin ngày mai ông phải về kinh chịu án, ông chỉ “mỉm cười” thanh thản. 

 

→ Huấn Cao là một trang anh hùng có lý tưởng cao đẹp, có khí phách hiên ngang. Ta nhận thấy ở Nguyễn Tuân thái độ trân trọng những con người có khí phách và tâm trạng bất mãn với xã hội đương thời, đã đi vào lòng độc giả như một người anh hùng, một đấng trượng phu, vượt lên trên những cái tầm thường.

Vẻ đẹp thiên lương trong sáng

  • Thiên lương bao gồm
    • Lương tri (khả năng hiểu biết sáng suốt),
    • Lương năng (khả năng hơn người) và
    • Lương tâm (tâm hồn tốt).

Đó là cái tâm trong sáng, thuần khiết hướng tới cái đẹp.

  • Thiên lương là bản tính tốt, trời phú cho mỗi người, là chuẩn mực mà Nguyễn Tuân hướng tới trong buổi giao thời Tây- Tàu nhố nhăng. Trong các nhân vật của mình ở “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân tập trung thể hiện vẻ đẹp ấy. Vẻ đẹp thiên lương của Huấn Cao thể hiện ở:
    • Ông thật lòng yêu cái đẹp, quý trọng những rung động thẩm mỹ chân chính xuất phát từ tâm hồn, không vì vàng bạc hay quyền thế mà ép mình viết chữ “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”
    • Ông ý thức sử dụng cái đẹp, cái tài sao cho đúng với giá trị của nó: ông không cho chữ tùy tiện, ông chỉ cho chữ những chỗ tri âm “tính ông vốn khoảng, từ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ” (cả đời ông cũng chỉ tạo ra ba tác phẩm nghệ thuật: hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân, cho chữ viên quản ngục là lần thứ tư)
    • Ông trân trọng những người yêu cái đẹp, dùng tấm lòng để đáp lại tấm lòng được thể hiện ở sự điều chỉnh thái độ cư xử của ông đối với viên quản ngục
  • Khi chưa nhận ra tấm lòng của viên quản ngục: Huấn Cao coi khinh y, xem y là loại tiểu nhân như những tên cai ngục tàn bạo khác
  • Khi nhận ra tấm lòng của viên quản ngục:
    • Huấn Cao ngạc nhiên, cảm phục tấm lòng yêu quý cái đẹp của viên quản ngục “ta cảm cái lòng biệt nhẫn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết đâu, một người như thầy quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy”
    • Ông tỏ thái độ ân hận “Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ông không sợ uy quyền, tiền bạc, thậm chí cả cái chết, nhưng lại sợ phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Chỉ có những nhân cách lớn mới có cái sở thích cao quý đến như thế
    • Ông không ngần ngại tặng chữ, lấy tấm lòng mình đáp lại tấm lòng của viên quản ngục “Về báo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và cả một bó đuốc xuống đây ta cho chữ”
  • Huấn Cao coi trọng việc giữ gìn vẻ đẹp của thiên lương, ông không những cho chữ mà còn khuyên viên quản ngục bỏ nghề, về quê để giữ thiên lương. Theo ông chốn ngục tù là nơi nhem nhuốc, coi tù làm một công việc tàn bạo nên ở lâu chốn ấy, làm mãi việc ấy sẽ “khó giữ thiên lương cho lãnh vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”
  • Người ta thấy ở đây cái tài đang phụng sự cái tâm, cái tâm điều khiển cái tài. Cái tài và cái tâm hòa quyện với nhau.
  • Chính vì lẽ đó ta thấy Huấn Cao là một người có thiên lương trong sáng. Cái tâm của Huấn Cao rực sáng trong chốn ngục tù tăm tối. Qua đó Nguyễn Tuân khẳng định: Con người cần phải biết vượt lên hoàn cảnh để giữ thiên lương

Nhân vật viên quản ngục

Viên quản ngục là một người tốt, tuy chọn nghề giữ tù nhưng có tâm hồn nghệ sĩ cao đẹp “là thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”

Ông yêu quý cái đẹp

  • Ông biết “đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”
  • Ông có sở nguyện cao quí là được treo trong nhà một bức chữ của Huấn Cao “một ngày kia được treo ở nhà riêng của mình một đôi câu đối dao tay ông Huấn Cao viết”
  • Ông bất chấp luật pháp, đảo lộn trật tự kỉ cương trong nhà tù để tôn thờ tử tù, biệt đãi tử tù, liều lĩnh xin chữ tử tù ngay trong ngục thất
  • Ông đón nhận chữ ông Huấn bằng thái độ “khúm núm”, trân trọng

Ông trân trọng những con người tài hoa

  • Nghe tin sắp nhận toàn tử tù, trong đó có người đứng đầu là Huấn Cao, ông vừa mừng vừa lo:
    • Ông mừng vì sắp được diện kiến người mà bấy lâu nay mình ngưỡng mộ
    • Ông xót xa cho hoàn cảnh của Huấn Cao, “muốn biệt đãi ông Huấn, muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại” nhưng ông lo vì không biết thái độ thầy thơ lại thế nào, chỉ sợ thầy ấy báo lại với quan trên thì hỏng việc. Bởi thế hình ảnh viên quản ngục đầy vẻ đăm chiêu, nghĩ ngợi “nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quanh băn khoăn ngồi bóp thái dương”
  • Ông biệt đã ông Huấn:
    • Khi mới nhận được tin, ông cho ngục tốt “quét dọn lại cái buồng trong cùng”
    • Khi tiếp nhận đoàn tử tù, viên quản ngục không ra uy như thường lệ mà nhìn Huấn Cao với thái độ “biệc nhỡn” qua “cặp mắt hiền lành, lòng kiên nể”
    • Bọn lính lấy làm lạ phải nhắc nhở “Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho” nhưng viên quản ngục vẫn ung dung “Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ có nhiều lời”
    • Ông vào tận phòng giam, cử chỉ cung kính, hỏi thăm Huấn Cao “Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là người có nghĩa khí, tôi muốn chăm chước ít nhiều…Vậy ngày có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”
    • Bị Huấn Cao xua đuổi với thái độ khinh bạc, ông vẫn không tức giận, lặng lẽ lui ra với thái độ “xin lĩnh ý”, ông không oán thù vì ông biết “những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng có biết ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”
    • Sau đó suốt nửa tháng, ông đều dặn nhờ thầy thơ lại đem rượu thịt vào phòng giam cho ông Huấn trước mỗi bữa cơm tù với thái độ lễ phép, cả người bạn của Huấn Cao cũng được tiếp đãi tử tế như thế
  • Ông “tái nhợt người đi” khi nhận công văn cho biết ngày mai sẽ giải Huấn Cao về kinh chịu án

Ông biết hướng thiện

Vẻ đẹp ấy thể hiện ở sự cảm động và thái độ thành kính tiếp nhận lời khuyên của ông Huấn “ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẻ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.” Cái váy lại này nâng cao nhân cách thầy quản, gợi nhớ cái cuối đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai

Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của Huấn Cao, vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người có thiên lương, được dẫn dắt bởi cái đẹp cái thiện, bộc lộ thái độ đề cao thiên lương của Nguyễn Tuân

Cảnh cho chữ

Kết quả hình ảnh cho chữ người tử tù

Cảnh cho chữ là một cảnh tượng lạ “chưa từng thấy xưa nay”

Cảnh cho chữ diễn ra trong một hoàn cảnh thật đặc biệt:

  • Việc cho chữ không diễn ra ở một thư phòng, thư sảnh với hương trầm thơm ngát mà tại một buồng giam tăm tối, bẩn thỉu “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”
  • Người cho chữ không phải là một nghệ sĩ tự do, mà là một tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”, chỉ còn sống được một đêm ngắn ngủi để sáng tạo cái đẹp
  • Kẻ xin chữ lại là một cai ngục
  • Trật tự kỉ cương thông thường bị đảo lộn, tử tù trở thành một nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp với phong thái uy nghi, còn kẻ coi tù trở nên khúm núm, vái lạy tử tù

Cảnh cho chữ là một cảnh tượng đẹp

Xoay quanh việc cho và nhận chữ, hiện lên vẻ đẹp của ba con người đang quay quần bên cái đẹp

  • Huấn Cao – một anh hùng bất khuất, một nghệ sĩ say mê sáng tạo cái đẹp, một người có thiện lương trong sáng
    • Huấn Cao như một anh hùng có khí phách hiên ngang, vượt lên sự ràng buộc của gông cùm, xiềng xích, dồn hết tâm trí của một nghệ sĩ tài hoa để sáng tạo cái đẹp, đưa cái đẹp vào cõi bất tử “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh  căng phẳng trên mảnh ván”
    • Cái tâm của viên quản ngục đang điều khiển cái tài của Huấn Cao, cái tài của Huấn Cao đang phụng sự cái tâm của viên quản ngục. Cái tài và cái tâm đang hòa vào nhau để tạo ra cái đẹp
    • Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn cho viên quản ngục một lời khuyên “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?… Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái ghế này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”
    • Lời khuyên chân tình của một con người đã nghiệm ra lẽ phải và chân lý ở đời, thể hiện vẻ đẹp của nhân cách, khẳng định cái đẹp có thể nảy sinh từ cái chết nhưng cái đẹp không bao giờ song hành với cái xấu, cái ác. Con người nên giữ vẻ đẹp của thiên lương để xứng đáng thưởng thức cái đẹp và giữ lấy thiên lương cho lành vững cũng chính là giữ được cái thiện ở đời
    • Lời khuyên như một lời di chúc thiêng liêng, có ý nghĩa sâu sắc như một bài học về lẽ sống hướng tới sự hài hòa giữa tài và tâm
  • Viên quản ngục – một người thật lòng yêu, trân trọng cái đẹp, có nhân cách đẹp
    • Viên quản ngục tiếp nhận cái đẹp bằng thái độ trân trọng “người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm, cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”
    • Sau khi nhận lời khuyên của Huấn Cao, viên quản ngục “chắp tay vái” người tù, nói trong sự nghẹn ngào bởi dòng nước mắt ri vào kẻ miệng “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”
    • Điều này cho thấy thiện tâm của viên quản ngục. Trước cái tài của Huấn Cao, viên quản ngục kính trọng (xin lĩnh ý lui ra, khúm núm nhận chữ) nhưng trước cái tâm cao đẹp của ông Huấn viên quản ngục cảm động thật sự (vái lạy, xin bái lĩnh)
  • Thầy thơ lại – một người cũng hết lòng yêu, nâng niu cái đẹp, thể hiện qua thái độ “run run” bưng chậu mực
    • Cái đẹp có uy quyền mạnh mẽ, khuất phục cái ác, cái xấu, cảm hóa con người
  • Cảnh có sự tương phản độc đáo, đó là sự đối lập giữa

Phòng giam (cái xấu, cái ác)

Việc cho chữ (sáng tạo cái đẹp)
Xin chữ (cai ngục) Cho chữ (tử tù)
Cai ngục khúm núm Tử tù oai phong
Thiện Ác
Màu sắc: buồng tối Ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, tấm lụa trắng tinh
Mùi phân chuột, phân gián Mùi thơm của mực
Khoảnh khắc ngắn ngủi của cuộc đời Sự bất tử của cái đẹp

→ Tôn vinh hình tượng Huấn Cao, thể hiện quan điểm của Nguyễn Tuân: sự hài hòa giữa tài hoa, cốt cách, thiên lương sẽ tạo nên cái đẹp chân chính, trường tồn

 

Cảnh cho chữ là một cảnh tượng đặc sắc, thống nhất mọi vẻ đẹp của của hình tượng Huấn Cao và viên quản ngục, thể hiện quan điểm của Nguyễn Tuân: cái đẹp, sự tài hoa phải đi với cái tâm thì mới bền vững, có ý nghĩa

Nghệ thuật

  • Tình huống truyện độc đáo, kịch tính
  • Thủ pháp đối lập đặc sắc
  • Ngôn ngữ giàu giá trị tạo hình, gợi không khí cổ xưa
  • Khắc họa rõ tính cách nhân vật bằng bút pháp lí tưởng hóa

Tổng kết

  • Truyện khắc họa hình ảnh một con người tài hoa, có khí phách hiên ngang, cái tâm trong sáng, thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp, bộc lộ tình cảm yêu nước của Nguyễn Tuân
  • Truyện tiêu biểu cho phong cách tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám
  • “Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân dạy cho người ta hiểu rằng muốn nên người phải biết kính sợ ba điều này: cái tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của con người (thiên lương)” (Nguyễn Đăng Mạnh)
Người đóng góp
Comments to: Chữ người tử tù