Tìm hiểu chung

Tác giả

Cuộc đời

  • Ngô Xuân Diệu (1916 – 1985), sinh ra và lớn lên ở Bình Định.
  • Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông làm viên chức ở Mĩ Tho, sau ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự lực văn đoàn.
  • Cả cuộc đời ông luôn gắn bó với nền văn học dân tộc.

Sự nghiệp sáng tác

  • Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, là “ông hoàng” thơ tình Việt Nam. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, thiết tha yêu đời. 
  • Ông là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ. Ông đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật độc đáo, sáng tạo.
  • Các tác phẩm tiêu biểu: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960), v.v.

Tác phẩm

  • Xuất xứ: in trong tập “Thơ thơ”
  • Chủ đề: Bài thơ thể hiện khát vọng sống mãnh liệt, sống hết mình, sống tận hưởng một cách trọn vẹn từng giây từng phút trong cuộc đời của Xuân Diệu.
  • Bố cục: 
    • 13 câu thơ đầu: tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết, yêu thiên nhiên đất nước của thi nhân.
    • 16 câu thơ giữa: nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người và cảm nhận mới mẻ về thời gian của tác giả.
    • 10 câu thơ cuối: lời giục  giã cuống quýt, vội vàng tận hưởng những tháng ngày tuổi trẻ giữa mùa xuân của cuộc đời, vũ trụ.
  • Thể loại: Thơ mới (thơ tự do).

Hướng dẫn học bài

Câu 1

Xem phần Tìm hiểu chung/ Tác phẩm/ Bố cục.

Câu 2

  • Người xưa lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Họ quan niệm rằng thời gian là một vòng tuần hoàn mang tính chu kì, hết một vòng bốn chu kì thì thời gian lại quay về điểm xuất phát. Xuân Diệu thì lại khác. Ông quan niệm thời gian là một dòng chảy mang tính tuyến tính – mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn => Quan niệm mới lạ, tiến bộ về thời gian của thi nhân.
  • Nhà thơ có tâm trạng vội vã, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian vì ông biết rõ bản chất của thời gian. Ông sợ hãi, lo lắng, bất lực trước quy luật nghiệt ngã của thời gian và sự hữu hạn của kiếp người. Vì có thể vào lúc ông chưa kịp làm hết những điều mình muốn, thực hiện hết tất cả những ước mơ, khát vọng thì “mùa xuân” của ông đã chấm hết.

Câu 3

  • Hình ảnh thiên nhiên được tác giả cảm nhận tinh tế, bằng các giác quan của bản thân và được diễn tả một cách sống động, vui tươi, tràn đầy sức sống.
  • Đối với Xuân Diệu, cuộc sống, hạnh phúc hay thời gian đều tuyệt vời nhất là khi có tình yêu và tuổi trẻ.

Câu 4

  • Đoạn thơ cuối: Xem phần Đọc – hiểu tác phẩm/ 10 câu thơ cuối.
  • Hình ảnh sáng tạo, độc đáo: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” ; “- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”. (Chi tiết xem phần Đọc – hiểu tác phẩm)

Đọc – hiểu tác phẩm

Mười ba câu thơ đầu

“Tôi muốn tắt nắng đi

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Bốn câu thơ đầu 

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.”

  • Bốn câu thơ ngũ ngôn ngắn gọn, dứt khoát, nhịp điệu gấp gáp, dồn dập => Tác giả bộc lộ trực tiếp khát vọng không tưởng, táo bạo một cách mãnh liệt.
  • “Tắt nắng”, “buộc gió”: ý muốn can dự vào thiên nhiên, thay đổi những thứ vốn được tạo hóa định sẵn.
    • “Tắt nắng”: để giữ vẹn nguyên sắc màu tươi đẹp của cuộc sống
    • “Buộc gió”: sợ những cơn gió vô tình cuốn theo hương vị cuộc đời mà bay đi mất.
  • Cách nói kì lạ, táo bạo kết hợp với các động từ mạnh “tắt”, “buộc” => diễn tả mạnh mẽ khát khao muốn níu giữ những gì tốt đẹp nhất của thiên nhiên, muốn đắm chìm thật sâu trong vẻ đẹp ấy.
  • Điệp ngữ “Tôi muốn”, điệp từ “cho” và phép điệp cấu trúc: nhấn mạnh ý muốn của bản thân, bộc lộ cái tôi cá nhân tự tin, trực tiếp.

==> Bốn câu thơ đầu ngắn gọn, hàm xúc cho ta thấy hình ảnh của một Xuân Diệu ngông cuồng, táo bạo nhưng sâu bên trong là cảm xúc, tình cảm chân thành dành cho thiên nhiên, cuộc sống.

Sáu câu thơ tiếp 

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đâycủa cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;

này đây ánh nắng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;”

  • Các câu thơ được kéo dài thành tám chữ => Dễ dàng vẽ nên một khu vườn xuân, khu vườn tình yêu, bức tranh cuộc sống thiên đường trên mặt đất.
  • Mùa xuân quê hương được Xuân Diệu cảm nhận, miêu tả một cách tinh tế, khéo léo bằng những hình ảnh tươi đẹp với sức sống căng tràn:
    • Phía trên, từng đàn ong bướm bay lượn, tìm kiếm nguồn mật tươi ngon. Chúng quấn quít bên nhau như những cặp vợ chồng hạnh phúc đang trong “tuần tháng mật” ngọt ngào.
    • Phía dưới, nơi “đồng nội”, những bông hoa đua nhau khoe sắc rực rỡ trên nền “xanh rì”. Chúng khoác lên mình những bộ cánh lộng lẫy, kiêu sa bản thân tự hào nhất, sẵn sàng mê hoặc tầm mắt của bất cứ ai một khi lỡ liếc nhìn.
    • Tô điểm thêm cho khu vườn xuân là những “cành tơ” “phơ phất” vươn dáng nõn nà, căng tràn nhựa sống.
    • “Yến anh” hót ríu rít bản nhạc tình xuân, những “khúc tình si” tựa như những loại rượu thượng hạng, làm đắm say lòng người.
    • “Ánh sáng chớp hàng mi”: Khu vườn xuân được chiếu sáng bởi ánh nắng nhu hòa, ấm áp. Từng tia nắng len qua những cành cây tạo thành nhiều vệt sáng trông như làn mi cong vuốt của người thiếu nữ => Cách liên tưởng độc đáo, sáng tạo => Bình minh như mang khuôn mặt của người thiếu nữ kiều diễm với hàng mi cong dài, chỉ cần một cái chớp mắt đã có thể mê hoặc bao người.
    • “Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa”: Niềm vui hiện hữu tạo nên một thiên đường đủ sắc – hương – thanh – hạnh phúc. Niềm vui được ví như một vị thần siêng năng, luôn “gõ cửa” mỗi “buổi sớm”, mang theo hạnh phúc lấp đầy khu vườn mỗi ngày.
  • Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: xúc giác (tuần tháng mật) -> thính giác (khúc tình si) -> thị giác (ánh sáng chớp hàng mi) tạo nên một thiên đường tuyệt diệu với đầy đủ xúc cảm.
  • Phép điệp “này đây” được lặp lại năm lần kết hợp với biện pháp nghệ thuật liệt kê: lời mời gọi đầy quyến rũ của nhà thơ, muốn mọi người thưởng thức thiên đường trần gian.
  • Nghệ thuật nhân hóa: Khu vườn trở nên sống động, có hồn => Thể hiện tình yêu thiên nhiên, cảm xúc dào dạt của tác giả.

==> Bằng cảm xúc chân thật, tình cảm chân thành, Xuân Diệu đưa đến trước mắt đọc giả khu vườn xuân hay cũng là khu vườn tình yêu ấm áp vui tươi: có sức sống “như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được phải trỗi ra thành những cái lá nhỏ tí giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh” (Vũ Bằng), có ánh sáng tinh khôi, hương sắc kiều diễm, âm thanh tình tứ và cả hạnh phúc tràn đầy.

Câu thơ thứ bảy

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

  • Câu thơ mới mẻ, đậm chất “Xuân Diệu”:
    • “Ngon”: tác giả cảm nhận thời gian bằng vị giác.
    • “Tháng giêng”: tháng đầu tiên trong năm, lúc mọi vật sinh sôi, nảy nở => Gợi hình ảnh Xuân Diệu lúc bấy giờ – chỉ mới hơn 20 tuổi, căng tràn sức sống tuổi trẻ.
    • “Cặp môi gần”: bờ môi quyến rũ của người thiếu nữ => Gợi liên tưởng đến một nụ hôn nồng nàn, quyến luyến nhưng lại vô cùng trong sáng, thanh cao, không mang chút ý tứ nhục cảm nào.
  • Cách so sánh thú vị, mới lạ: lấy hình ảnh cụ thể của cơ thể người ”cặp môi gần” làm chuẩn mực để đánh giá thiên nhiên “tháng giêng” => Phá vỡ quy chuẩn của thơ ca trung đại.
  • Trong thơ ca trung đại, vẻ đẹp thiên nhiên thường được các thi nhân dùng để ước lệ tượng trưng vẻ đẹp con người, nhất là người phụ nữ.
    • Những hình ảnh đẹp nhất trong thiên nhiên được đại thi hào Nguyễn Du lấy làm thước đo, chuẩn mực để miêu tả chân dung nàng Kiều.

“Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

    • Còn trong “Vội vàng”, Xuân Diệu lại dùng đôi môi người thiếu nữ làm tiêu chuẩn để hình dung vẻ đẹp của đơn vị thời gian trừu tượng => Đề cao, trân trọng vẻ đẹp con người => Nét mới trong thơ ca đương thời.

Hai câu thơ cuối

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

  • Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc nhưng bên trong Xuân Diệu lại hiện lên nỗi lo âu mong manh về một ngày sắc xuân sẽ phai tàn.
    • Câu thơ mang hai dòng cảm xúc đối lập, mâu thuẫn: muốn đắm chìm trong niềm vui thiên nhiên, đất trời nhưng lại luôn băn khoăn, thảng thốt về thời gian trôi nhanh, mang theo cả mùa xuân tươi đẹp.
    • Dấu chấm khác thường giữa câu như chia đôi suy nghĩ của nhà thơ, biểu thị sự gián đoạn của tình cảm sung sướng, chuyển thành sự lo lắng, bất an.
  • “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”: tác giả không muốn đến khi phải chịu đựng cái nắng gay gắt, chói chang của mùa hạ mới giật mình hoài niệm sự ấm áp của mùa xuân đã qua.

==> Giọng thơ băn khoăn, tiếc nuối, dòng cảm xúc đối lập: Xuân Diệu quyết định phải “vội vàng” tận hưởng thời gian tuổi trẻ, tận hưởng mùa xuân mơn mởn của quê hương. 

Kết

  • Qua mười ba câu thơ đầu, ta cảm nhận tình yêu nồng nàn, say đắm, tha thiết của tác giả đối với thiên nhiên, cuộc sống, hạnh phúc lứa đôi. Với thái độ trân trọng cùng với sự cảm nhận tinh tế, Xuân Diệu chậm rãi ở trước mắt người đọc họa nên cảnh sắc tuyệt vời của mùa xuân. 
  • Nhịp thơ dồn dập, biến hóa linh hoạt những câu thơ dài ngắn khác nhau => Mười ba câu thơ đầu như diễn tả từng nhịp đập rộn ràng của con tim thi sĩ, những cảm xúc thay đổi không ngừng: khi thì dâng trào, sôi nổi, khi thì lại trầm lắng.
  • Nghệ thuật nhân hóa đặc sắc, nghệ thuật so sánh độc đáo, những hình ảnh đẹp đẽ, vui tươi, cách sử dụng từ ngữ tinh tế => Bức tranh thiên nhiên mùa xuân thêm sống động, có hồn => Bày tỏ tình yêu thiên nhiên quê hương, yêu cuộc sống Xuân Diệu.

Mười sáu câu thơ giữa

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

Ba câu thơ đầu

Khác hẳn với khái niệm về thời gian “tuần hoàn” của con người thời trung đại, quan niệm về thời gian trong thơ của Xuân Diệu hoàn toàn khác lạ, tiến bộ: thời gian như một dòng chảy, một khi trôi qua sẽ không bao giờ trở lại:

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất,”

  • “Xuân” trong hai câu thơ trên mang hai ý nghĩa: vừa là mùa xuân – mùa đẹp nhất trong năm, vừa là tuổi xuân – tuổi đẹp nhất trong cuộc đời con người.
  • Điệp ngữ “nghĩa là” được lặp lại ba lần kết hợp với điệp cấu trúc câu tạo thành câu định nghĩa, mang tính chất khẳng định tuyệt đối: phơi bày hiện thực phũ phàng trước quy luật nghiệt ngã, khắc nghiệt của thời gian.
  • Các cặp từ đối lập “đương tới – đương qua”, “còn non – sẽ già”: cảm nhận tinh tế của tác giả đối với thời gian, diễn tả mùa xuân và thời gian đang vận động không ngừng => Dòng chảy của thời gian là vô tận: dù xuân đương tới cũng đương qua một cách nhanh chóng, xuân còn non chỉ là dấu hiệu cho một tương lai rồi sẽ già, sẽ hết.
  • “Xuân hết – tôi cũng mất”: cảm giác đau đớn của Xuân Diệu khi nghĩ về tuổi trẻ sắp qua: một khi tuổi trẻ qua đi, cuộc sống của ông cũng kết thúc. “Mất” ở đây không có nghĩa là “chết” vì nó không thích hợp với phong cách của Xuân Diệu mà được hiểu theo nghĩa “tan biến”: thanh xuân, sức trẻ, khát khao, hoài bão.
  • Dấu phẩy liên tiếp ở ba câu khiến giọng thơ trở nên chì chiết, ngậm ngùi, nghẹn ngào.

Hai câu thơ tiếp 

“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,”

  • Cặp từ tương phản “rộng – chật”: tấm lòng muốn cống hiến, khao khát sống hết mình với tuổi trẻ của tác giả bị giới hạn bởi “lượng trời” – có lẽ là lượng thời gian. “Lòng rộng” vì chất chứa nhiều ước mơ, hoài bão nhưng lại không được thực hiện vì “lượng trời” chẳng dung nỗi.
  • Từ phủ định “Không”: thể hiện quy luật nghiệt ngã của cuộc đời: tuổi trẻ của mỗi người không dài, thậm chí có thể xem là ngắn, không thể tồn tại quá lâu đừng nói chi đến vĩnh viễn.

Bốn câu thơ tiếp

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”

  • Cặp từ đối lập “tuần hoàn – chẳng hai lần”: mùa xuân của đất trời là vĩnh hằng, tuần hoàn theo chu kỳ bốn mùa “xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận” nhưng đời người thì lại hữu hạn, tuổi thanh xuân tràn ngập sức sống không sao có thể “thắm” lại lần hai:

“Mười chín tuổi, hỡi những nàng má ngọc.

Ríu rít chim, là tuổi ước mơ hoa !

Hỡi chàng trai kiều diễm mãi vui ca.

Mười chín tuổi ! Chẳng hai lần hoa nở !”

(Đẹp – Xuân Diệu)

  • Cặp từ đối lập “còn trời đất – chẳng còn tôi mãi”: như một lời trách móc, giận dỗi của tác giả trước cái vô tận của thời gian đất trời khi đặt cạnh cái hữu hạn của tuổi trẻ, của kiếp người.
  • Từ láy “bâng khuâng” kết hợp với “tiếc cả đất trời”: Xuân Diệu bất lực chống lại quy luật khắc nghiệt của thời gian, sự tồn tại nhất định của đời người => Cuộc đối kháng không cân sức giữa con người với thiên nhiên.

Sáu câu thơ tiếp

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?”

Cảm nhận độc đáo của Xuân Diệu trước bước đi của thời gian và những biến chuyển trong không gian.

  • Thời gian được cảm nhận tinh tế bằng khứu giác và vị giác (nghệ thuật chuyển đổi cảm giác qua chữ “rớm”) => Mỗi khoảnh khắc trôi qua, nhà thơ cảm nhận được đậm hơn “vị chia phôi” – một thứ vị phi vật chất: thời gian như vĩnh biệt với con người, với vũ trụ và với chính bản thân. Có lẽ vì thế mà khắp đất trời, sông núi chỉ còn lại lại một thanh âm duy nhất: âm thanh của sự chia ly.
  • Các hình ảnh thiên nhiên được nhân hóa kết hợp với kiểu câu nghi vấn: cho ta cảm nhận rằng dường như thiên nhiên cũng đang bị triệt tiêu mất niềm vui vốn có, mang nặng nỗi sầu ai oán: Con gió xinh phải thì thào trong lá biếc vì nỗi sợ phải rời xa cây hoa; chim đang hót rộn ràng bỗng nhiên im bặt vì sợ một ngày tiếng hót không còn vang như bây giờ.

=> Thời gian trôi đi mang lại nỗi sợ không chỉ đối với con người mà cả thiên nhiên, đất trời.

=> Tâm trạng hoài nghi, hụt hẫng, bất an của Xuân Diệu vì tuổi xuân trôi qua quá mau mà đời người thì lại có giới hạn.

Câu thơ cuối

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

  • Cách ngắt nhịp 3/1/4: thể hiện tâm trạng luống cuống, lo lắng, băn khoăn của nhà thơ.
  • Phép điệp cấu trúc “chẳng bao giờ” kết hợp với từ cảm thán “ôi”: nỗi tuyệt vọng của tác giả trước sự khắc nghiệt của thời gian: thời gian không bao giờ đứng lại mà sẽ mãi trôi đi, cuốn theo cả tuổi trẻ, thanh xuân.
  • Dấu chấm cảm giữa dòng và dấu chấm lửng cuối câu: kéo dài nỗi bàng hoàng, thảng thốt, làm câu thơ vừa như mang theo một tiếng nấc nghẹn ngào, lại như ẩn chứa tiếng thở dài bất lực của Xuân Diệu.

Kết

  • Tài hoa trong phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu: ngôn từ trau chuốt, cảm xúc tinh tế, biểu hiện đặc sắc.
  • Đa dạng các biện pháp nghệ thuật: phép điệp, phép đối lập,… có giá trị biểu đạt cao, nhịp thơ chậm rãi, giọng thơ như hờn giận, như trách móc => Thể hiện triết lý về sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của cuộc đời => Tác giả hoàn toàn bất lực trước quy luật nghiệt ngã, khắc nghiệt của thời gian.

Mười câu thơ cuối

“Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm,

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”

Câu thơ đầu

“Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm,”

Lời thúc giục của tác giả đối với bản thân và mọi người hãy sống vội vàng.

  • “Mùa chưa ngả chiều hôm”: cách kết hợp từ mới lạ, thú vị: Xuân Diệu dùng từ chỉ thời gian cuối ngày (“chiều hôm”) để chỉ thời điểm cuối mùa. Đó là một mùa chưa tàn, chưa úa, vì thế ta nên “vội vàng”, nhanh chóng tận hưởng hết thảy hương sắc của nó.
  • Sống “vội vàng” không phải là sống một cách gấp gáp, tất bật mà là sống tranh thủ từng giây, từng phút trôi qua thực hiện hoài bão, khao khát của bản thân để thời gian trôi qua được ý nghĩa nhất.
  • Không chỉ trong “Vội vàng”, tác giả còn luôn hối thúc, giục giã mọi người sống mau, sống vội:

“Mau với chứ ! Vội vàng lên với chứ

Em, em ơi tình non sắp già rồi !

Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai

Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn.”

(Giục giã – Xuân Diệu)

Bảy câu thơ tiếp

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

non nước, cây, cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;”

Những ham muốn cuồng nhiệt không điểm dừng dâng theo dòng cảm xúc:

  • “Ta muốn ôm”: câu thơ chỉ gồm 3 chữ ngắn gọn, dứt khoát thể hiện cảm xúc như bật ra tức khắc của nhà thơ.
  • Điệp ngữ “Ta muốn”: mang tính khái quát, thể hiện tình cảm chung chung, góp phần nhấn mạnh khát khao cháy bỏng, mãnh liệt của tác giả.
  • Động từ mạnh theo mức độ tăng dần “ôm”, “riết”, “say”, “thâu” diễn tả tình cảm ngày càng mạnh mẽ, mê đắp cùng với mong muốn sống tận hưởng tuổi trẻ một cách cuồng nhiệt của tác giả. “Ôm” hình như quá lỏng lẻo nên phải “riết” cho thêm chặt. “Riết” dù chặt cũng chỉ là bên ngoài nên phải chuyển hóa vào bên trong, phải “say” trong tâm hồn. “Say” đến thế nào thì đối tượng ta say vẫn chỉ là khách thể nên càng đòi hỏi cao hơn, phải thu hút, “thâu” tóm đối tượng về phía mình. 
  • Các liên từ “và” cùng với giới từ “cho” trùng điệp, có vẻ dư thừa làm câu thơ trở nên xô bồ nhưng lại góp phần bộc lộ cảm xúc dâng trào ào ạt, liên tục của thi nhân. Đồng thời còn thể hiện khát vọng sống hăm hở, sôi trào một cuộc sống táo bạo mà tinh khiết.
  • Các tính từ chỉ mức độ tình cảm “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” tăng dần, ngày càng cuồng nhiệt, mãnh liệt, ào ạt không giới hạn.
  • Các hình ảnh thơ khỏe khoắn, căng tràn sức sống: “mơn mởn”, “mây đưa”, “gió lượn”, “cỏ rạng”.

Câu thơ cuối

“- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”

Cảm xúc của Xuân Diệu được đẩy lên đến tận cùng: Khát vọng sống cùng với tình yêu cuộc sống, thiên nhiên ngày càng tha thiết, say đắm.

  • “Xuân hồng” với hai tầng nghĩa khác nhau: vừa là mùa xuân tươi hồng của thiên nhiên, vừa là tuổi trẻ hồng thắm, trẻ trung, xinh tươi của con người.
  • Động từ mạnh “cắn”: diễn tả sự hưởng thụ trọn vẹn về cả thể xác lẫn tinh thần. “Cắn” là một động từ mang tính nhục thể, xác thịt, có phần thô lỗ, bạo lực nhưng lại mang đến hiệu quả nghệ thuật độc đáo, sáng tạo: kết hợp giữa trừu tượng thanh cao và cụ thể tầm thường. Đặt trong mạch thơ, ta dường như thấy được, chỉ có từ “cắn” mới diễn tả hết được ham muốn tột cùng của Xuân Diệu muốn chiếm hữu hết tất cả vẻ đẹp của “xuân hồng”. 
  • Tâm lý vội vã hưởng thụ, lòng yêu đời cuồng nhiệt, ham muốn tận hưởng giá trị, vẻ đẹp cuộc sống được thể hiện bằng nghệ thuật độc đáo trên trong các thi phẩm khác:

“Kẻ uống tình yêu dập cả môi”

(Hư vô – Xuân Diệu)

“Anh xin làm sóng biếc

Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ, thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi

Đã hôn rồi, hôn lại

Cho đến mãi muôn đời

Đến tan cả đất trời

Anh mới thôi dào dạt…

Cũng có khi ào ạt

Như nghiền nát bờ em”

(Biển – Xuân Diệu)

Kết

  • Mười câu thơ cuối cho ta thấy một Xuân Diệu hoàn toàn khác: cuồng nhiệt, táo bạo, vội vã với khát vọng sống tận hưởng từng phút giây tuổi trẻ, không để thời gian trôi qua lãng phí.
  • Sử dụng đa dạng, kết hợp điêu luyện các biện pháp nghệ thuật; nhịp thơ dồn dập, giọng thơ sôi nổi, nhịp điệu thơ gấp gáp được thể hiện bằng các câu thơ dài ngắn khác nhau => Tình cảm, cảm xúc dâng trào mãnh liệt của tác giả trước mong muốn sống hết mình với tuổi trẻ.
  • Những sáng tạo trong ngôn ngữ (động từ mạnh, tính từ chỉ mức độ,..), hình ảnh thơ đầy sức sống => Lột tả đến trạng thái cuống quýt, vồ vập, nồng cháy trước tình yêu cuộc sống của chàng thi sĩ trẻ tuổi. 

Tổng kết

Nội dung

“Vội vàng” là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một “nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” – Xuân Diệu.

Nghệ thuật

Kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng thơ say mê, sôi nổi cùng với những sáng tạo ngôn từ độc đáo, thú vị và những hình ảnh thơ tuyệt đẹp, sinh động.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Người đóng góp
Comments to: Vội vàng